Đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn Lớp 9 (Có đáp án)

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG ( NGUYỄN DỮ)

 

Đề 1. Vẻ đẹp truyền thống và số phận oan nghiệt của người phụ nữ trong “ CNCGNX” của Nguyễn Dữ?

 

a. Vẻ đẹp truyền thống:

 

- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.

 

-  Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.

 

* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng:

 

- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!

 

- Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

 

-  Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:

 

 " Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

 

   Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

 

 Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong "

 

(Chinh phụ ngâm)

docx 340 trang Người đăng Mai Đào Ngày đăng 07/06/2024 Lượt xem 223Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn Lớp 9 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn Lớp 9 (Có đáp án)
BỘ ĐỀ LỚP 9 
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG ( NGUYỄN DỮ) 
Đề 1. Vẻ đẹp truyền thống và số phận oan nghiệt của người phụ nữ trong “ CNCGNX” của Nguyễn Dữ? 
a. Vẻ đẹp truyền thống:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.
-  Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng:
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
- Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
-  Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
 " Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
     Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
     Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
(Chinh phụ ngâm)
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
-  Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả  thân phận và tấm lòng của mình để  thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ  khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ  gìn một tiết.....”  Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ  trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng  con. Vừa  gặp lại  Phan  lang, nghe  Lang  kể về  tình  cảnh gia  đình  nàng đã  ứa  nước mắt  xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để  nói lời đa tạ  tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ  nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
*  Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ  chồng, một người mẹ  hiền đầy tình yêu thương con.
-  Trong  ba  năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
-  Với mẹ  chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo.Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ  bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để  khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
-  Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
Toám lại: Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục lại đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thuỷ chung với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Nàng là người phụ nữ hoàn hảo, lý tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi phụ nữ. Người như nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết oan uổng, đau đớn. 
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
b. Số phận oan nghiệt: ( Thân phận người phụ nữ trong xhpk) 
- Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ nữ, người vợ, người mẹ, người con, ở cương vị nào nàng cũng làm rất hoàn hảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.
a, Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền:
- Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị nết na,lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó “cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó”.Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm“thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu,thô bạo.
- Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tại họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống như cha tôi trước kia”, làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới,mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng,cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơNàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho.Hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây,cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ".
-> Qua tác phẩm,ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, chà đạp và ức hiếp con người.
-> Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự , chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khuất  của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu.
b. Người phụ nữ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
- Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa quyến luyến k nỡ rời khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàng lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao,rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”
- Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của béChính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính,thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình- Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
* Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội PK xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không những không được bênh vực, chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.
=> Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
c. Nỗi niềm trăn trở về hạnh phúc gia đình
Qua cuộc đời VN, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc về hạnh phúc gia đình. VN đã tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc. Lúc mới về nhà chồng, khi chồng đi lính cũng như khi gia đình có nguy cơ tan vỡ nàng luôn nghĩ đến hạnh phúc gia đình, làm mọi chuyện để gìn giữ mái ấm ấy. Song cuộc đời cũng thật trớ trêu, một người phụ nữ vẹn toàn đức hạnh, đặt gia đình lên trên hết lại phải gánh chịu nỗi oan khuất và gia đình cũng từ đó mà tan vỡ. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thật cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được hạnh phúc thực sự của người phụ nữ. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây sựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia, sự thấu hiểu, tôn trọng, tin tưởng nhau đừng để cho những điều vô hình, mong manh (như chiếc bóng) giết chết tình yêu, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Quả thực, kết cục cuộc đời VN cũng cho ta thấy một điều rằng: lấy nhau mà không biết tính nhau, không thấu hiểu nhau, không tin nhau thì dù có thương yêu nhau đến đâu, không trước thì sau bi kịch ắt sẽ xẩy đến. Nỗi niềm trăn trở về hpgd của tác giả qua nhân vật VN cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta về việc làm thế nào để có được hạnh phúc gia đình thực sự ! 
d. Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ:
- Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân đạo,chà đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là sự xót xa thương cảm của tác giả trước nỗi oan khiên mà người phụ nữ phải gánh chịu.
 - Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa thương cảm cho người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh Miện, Hải Dương dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.
----------------------------------------------
Đề 2
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” ( M. Goorki). Chứng minh rằng chi tiết “Cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” và chi tiết “Chiếc lá” trong “Chiếc lá cuối cùng” của Ohenri là những chi tiết như thế. 
( Nhận định tương tự: Các chi tiết trong tác phẩm là những “ con mắt” ) 
MB 1: Nhà văn Pautopxki đã từng nói: “Chi tiết nghệ thuật là hạt bụi vàng của tác phẩm”, chi tiết chỉ là hạt cát nhưng đủ để độc giả hình dung về một sa mạc mênh mông, có thể chỉ như một giọt nước nhưng gợi được biển cả vô cùng vô tận. Qua chi tiết nghệ thuật mà độc giả cảm nhận được giá trị của tác phẩm. Vì lẽ đó M. Gorowki cho rằng: “”Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” và chi tiết “chiếc bóng” trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ cùng chi tiết “chiếc lá” trong “Chiếc lá cuối cùng” của O hen ri là những chi tiết nghệ thuật đắt giá như thế.
MB 2: Nhà văn Nguyễn Tuân từng nói: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo”. Thật vậy mỗi tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi phải mang một dấu ấn, ấn tượng sâu sắc riêng biệt trong lòng người đọc, có như vậy tác phẩm mới có thể sống và tỏa sáng giữa dòng chảy của thời gian. Tác phẩm muốn độc đáo thì nhà văn cần phải tạo sự độc đáo, ấn tượng từ những điều nhỏ nhặt nhất cấu thành nên tác phẩm, cùng với cốt truyện, tình huống truyện thì chi tiết nghệ thuật cũng là yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn chương tự sự, để tạo nên sự thành công đồng thời mang đến những dấu ấn riêng cho tác giả. Vì lẽ đó, M.Gorki nhận xét “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, chi tiết “ cái bóng” trong tác phẩm “ Chuyện người con gái NX” của Nguyễn Dữ và “ Chiếc lá” trong “Chiếc lá cuối cùng” của O. Henri là những chi tiết độc đáo, làm nên tên tuổi hai nhà văn.
1.Giải thích: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
Ý kiến của M. Gorơki bàn về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tp văn chương chân chính. “ Chi tiết nghệ thuật ” là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Chi tiết nghệ thuật là những hiện thực đời sống được nhà văn tái hiện trong tác phẩm, là đơn vị cấu tạo nên tác phẩm, mang sức chứa lớn về nội dung và nghệ thuật. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể mà chi tiết khiến hình tượng nghệ thuật trở nên gợi cảm và sống động, khiến ý đồ tư tưởng của nhà văn hiện hình rõ rệt, trở thành điểm hội tụ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm. Những chi tiết được chọn lọc, gửi gắm tư tưởng, tình cảm của nhà văn, là sự dồn nén những điều mà nhà văn muốn nói. Nhà văn lớn là nhà văn có nhiều đóng góp về giá trị nội dung, tư tưởng cũng như nghệ thuật qua những sáng tác của mình.Tầm vóc tư tưởng, tài năng nghệ thuật của nhà văn bộc lộ ngay trong chính cách nhà văn lựa chọn và sử dụng chi tiết trong tác phẩm. Chi tiết dù nhỏ nhưng lại mang giá trị lớn, mang sức chứa lớn về cảm xúc, tư tưởng giúp tác phẩm văn chương phản ánh được cuộc sống cả ở bề rộng và chiều sâu, mang đến những triết lý nhân sinh, sâu sắc. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện số phận, tính cách nhân vật, giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực, tư tưởng, phong cách của nhà văn. Để làm nên một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật. Nó xuất hiện ở vị trí phải nào trong mạch vận động của tác phẩm; nó được thể hiện ra sao hoàn toàn phụ thuộc vào con mắt nhìn, khả năng thấu hiểu đời sống, thấu hiểu con người của nhà văn. Với tấm lòng yêu thương trân trọng con người, đặc biệt là người phụ nữ, ND đã xây dựng chi tiết “ cái bóng” trong “CNCGNX” đã để lại cho bạn đọc nhiều suy ngẫm. 
2.Chứng minh vai trò của chi tiết nghệ thuật trong sự phát triển câu chuyện và thông điệp nhà văn muốn gửi gắm. 
2.1 Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm, khẳng định vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tp. 
Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”. Ông là người học rộng, tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi về ở ẩn ở vùng núi Thanh Hóa viết sách và nuôi mẹ già. Tác pẩm “TKML” - ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền, truyện viết về những người phụ nữ đức hạnh, khao khát cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh đầy oan khuất. Một trong những truyện tiêu biểu nhất là “Chuyện người con gái Nam Xương” - Câu chuyện kể về cái chết đầy oan khuất của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết – Vũ Nương. 
.2 Chứng minh chi tiết “cái bóng” và “chiếc lá” là những “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”
Luận điểm 1: “Cái bóng” trong “ CNNGNX” của Nguyễn Dữ là chi tiết nghệ thuật đắt giá, góp phần tạo kịch tính và thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện. “ Chiếc bóng” tạo nên nghệ thuật thắt nút, mở nút hết sức bất ngờ, kịch tính, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện; tạo mâu thuẫn bất ngờ, hợp lý và sự hoàn chỉnh, chặt chẽ cho cốt truyện. Vì thương con muốn khỏa lấp sự trống vằng hình bóng người cha trong tâm hồn đứa con thơ dại nên VN đã trỏ bóng mình trên vách và bảo rằng cha Đản. Nhưng nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nỗi đau oan khuất, dẫn đến cái chết bi thảm của nàng ( thắt nút). Chi tiết Cái bóng cũng làm nên sự hối hận của chàng Trương và giải oan cho Vũ Nương – Mở nút thắt làm câu chuyện rẽ sang hướng khác. Chi tiết “chiếc bóng” chính là hạt nhân tích trữ nỗi oan và cũng là cơn gió mùa thu giải oan cho Vũ Nương. Lần thứ hai xuất hiện, “chiếc bóng” không lời đã giải thích cho Trương Sinh hiểu rõ nỗi oan khuất của vợ mình. Trăm lời thanh minh của Vũ Nương, vạn lời bênh vực của bà con hàng xóm cũng không bằng một tích tắc Trương Sinh nhìn theo tay bé Đản thấy “chiếc bóng” trên vách tường nhà. TS đã nhận ra “chiếc bóng” chính là “người cha” hàng đêm của con, và chàng hiểu ra bao nhiêu cơ sự. Chàng không chỉ hiểu nỗi oan tày trời của vợ mà còn hiểu tình thương con vắng bóng cha của vợ mình, không chỉ nhận ra sai lầm của bản thân mà có lẽ chàng cũng đã tự phá vỡ hạnh phúc tròn đầy mà mình đã từng có. Chẳng cầu kì và dài dòng, chỉ một chi tiết nhỏ thôi nhưng cũng đủ để người đọc thấy được tài năng của Nguyễn Dữ, “chiếc bóng” kia đến một cách vô tình – nó không lời, lặng thầm mà lại phản ánh sự rủi ro, bất hạnh đầy ngẫu nhiên, phản ánh hạnh phúc mong manh của con người trong cuộc sống. Chi tiết chiếc bóng là sáng tạo của nhà văn, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển câu chuyện. 
Luận điểm 2: Thông qua chi tiết cái bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương” Nguyễn Dữ muốn gửi gắm đến bạn đọc những vấn đề nhân sinh, những thông điệp cuộc sống quý giá. Từ chi tiết này, mỗi nhân vật trong câu chuyện đều tự bộc lộ tính cách của mình. Bé Đản ngây thơ, chưa đủ nhận thức để phân biệt được cái bóng và người thật “ ông lại biết nói chứ không như cha tôi trươc kia chỉ nín thin thít” ... “ mẹ Đản đi cũng đi, mẹ đản ngồi cũng ngồi và chẳng bao giờ bế Đản cả” và điều đó đã vô tình khiến Đản mất mẹ vì một sự hiểu lầm tai hại bởi chính lời nói non dại của mình. Lời nói của đứa trẻ ngây thơ chứa k ít điều vô lí, như câu đố dành cho TS. Nhưng vì đa nghi, bảo thủ, độc đoán và mù quáng mà TS hại chết vợ song rồi bản thân chàng cũng không có được hạnh phúc. 
* Chi tiết Cái bóng trong truyện còn tô đậm thêm những nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò làm vợ, làm mẹ. Cái bóng là biểu hiện của tình yêu thương, lòng chung thuỷ. Yêu thương con, muốn bù đắp tình cảm cho con khi vắng cha, nàng muốn trong tâm hồn thơ dại của đứa con luôn có hình bóng người cha thân thương, đáng kính. Nàng trỏ bóng mình trên vách là thể hiện tình yêu thương, thủy chung với chồng. Nàng luôn mong ngóng và nhớ chồng da diết nên nàng đã mượn chiếc bóng của mình để khỏa lấp nỗi lòng “Vợ chồng như hình với bóng”, là ước muốn đồng nhất“ xa mặt” mà không cách lòng của nàng với người chồng nơi chiến trận, chiếc bóng là vật kí thác tình yêu chung thủy theo kiểu Vũ Nương. Nàng luôn khát khao gia đình được sum họp, được hạnh phúc. 
Cái bóng xuất hiện cuối tác phẩm “ Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng, mờ nhạt dần mà biến mất” Chi tiết này là sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so với truyện cổ tích” Vợ chàng Trương” tạo nên vẻ đẹp lung linh của tác phẩm và một kết thúc tưởng như có hậu nhưng lại nhấn mạnh bi kịch của người phụ nữ, khắc họa giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nàng nói lời tạ từ: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt song thấm đẫm tinh thần nhân đạo. 
+ Chi tiết Cái bóng mang đến một thông điệp sâu sắc, đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc về hạnh phúc gia đình. VN đã tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc. Lúc mới về nhà chồng, khi chồng đi lính cũng như khi gia đình có nguy cơ tan vỡ nàng luôn nghĩ đến hạnh phúc gia đình, làm mọi chuyện để gìn giữ mái ấm ấy. Song cuộc đời cũng thật trớ trêu, một người phụ nữ vẹn toàn đức hạnh, đặt gia đình lên trên hết lại phải gánh chịu nỗi oan khuất và gia đình cũng từ đó mà tan vỡ. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn lại một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được hạnh phúc thực sự của người phụ nữ. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình:
Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia, sự thấu hiểu, tôn trọng, tin tưởng nhau đừng để cho những điều vô hình, mong manh (như chiếc bóng) giết chết tình yêu, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Quả thực, kết cục cuộc đời VN cũng cho ta thấy một điều rằng: lấy nhau mà không biết tính nhau, không thấu hiểu nhau, không tin nhau thì dù có thương yêu nhau đến đâu, không trước thì sau bi kịch ắt sẽ xẩy đến. Nỗi niềm trăn trở về hpgd của tác giả qua nhân vật VN cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta về việc làm thế nào để có được hạnh phúc gia đình thực sự ! Phải yêu thương, tin tưởng, tôn trọng nhau, đừng để cho những điều vô hình, mong manh (như chiếc bóng) giết chết tình yêu, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, là bài học về hạnh phúc muôn đời, một khi đánh mất niềm tin ở đời thì hạnh phúc chỉ là cái bóng hư ảo!
Chi tiết cái bóng thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của nguyễn Dữ, thương xót, đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh, bênh vực người phụ nữ, phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng, ích kỉ của những người đàn ông trong xã hội phong kiến .....đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả, chi tiết ấy đã làm nên tầm vóc một “nhà văn lớn” - Nguyễn Dữ. Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa, thương cảm cho người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh Miện, Hải Dương dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.
Cái bóng là ẩn dụ cho số phận mong manh của người phụ nữ trong chế độ nam quyền. Chỉ là chiếc bóng vô hình nhưng cũng dẫn tới bi kịch, đẩy một người phụ nữ đức hạnh đến cái chết oan ức. Chiếc bóng mà Vũ Nương vô tình đem ra đùa với con, nhưng chính trò đùa ấy lại hại nàng. Chi tiết cái bóng làm cho cái chết Vũ Nương thêm oan ức và giá trị tố cáo xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công với phụ nữ thêm sâu sắc. Phải chăng, trong xã hội phong kiến, thân phận người phụ nữ mong manh và rẻ rúng chẳng khác nào cái bóng trên tường.
Liên hệ: Chi tiết “cái bóng” trong “CNCGNX” khiến bạn đọc liên tưởng đến chi tiết “ chiếc lá” trong “CLCC” của Ohenri. Chi tiết “chiếc lá” trong “Chiếc lá cuối cùng” của O. Henri là lá giả, “cái bóng” trong “CNCGNX” là người giả nhưng hai chi tiết ở hai thiên truyện đều đẩy cốt truyện lên cao trào, thắt nút, mở nút câu chuyện, đưa đến hai sự thật đối nghịch nhau: Cái chết oan khuất và sự sống ý nghĩa.Con người vững lòng tin ở sự sống trong việc chờ chồng nuôi con như VN vì “cái bóng” mà phải tìm đến cái chết, còn con người đang tuyệt vọng trong cuộc chiến bệnh tật, đang đi dần vào cõi chết như Giôn – xi lại tìm thấy sự sống. Chi tiết chiếc lá trong “ Chiếc lá cuối cùng” gắn với nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần. Chiếc lá thực mang đến cho Giôn – xi ý nghĩ tiêu cực khi cô đang ốm nặng, khó qua khỏi, khi chiếc lá cuối cùng rụng thì cô cũng buông xuôi, lìa đời.Chiếc lá - kiệt tác của cụ Bơ – men là chiếc lá của tình yêu thương, cụ Bơ men đang rất khỏe mạnh, vì muốn cứu Giôn – xi, cụ đã vẽ chiếc lá cuối cùng và bị sưng phổi rồi qua đời. Chiếc lá dẻo dai, dũng cảm bám vào thân cây thường xuân mặc cho mưa gió phũ phàng đã gieo vào lòng Giôn – xi niềm hi vọng, khơi dậy trong cô khát vọng sống, cho cô sức mạnh vượt lên cái chết. Chiếc là là liều thuốc diệu kỳ cứu sống con người, vực dậy một tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì tuyệt vọng. Chiếc lá là bức thông điệp màu xanh, là minh chứng cho tình yêu thương, sự hi sinh cao cả, sự đồng cảm, sẻ chia của những con người nghèo khổ dành cho nhau. Chiếc lá khẳng định quan niệm về nghệ thuật chân chính: Nghệ thuật vì cuộc sống con người. Hai chi tiết nghệ thuật với những quan niệm nhân sinh sâu sắc mà mỗi nhà văn gửi gắm đều mang đến cho bạn đọc niềm tin vào cuộc sống, tin vào những 

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_thi_chon_hoc_sinh_gioi_mon_ngu_van_lop_9_co_dap_an.docx