PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I.Lý do chọn đề tài: XuÊt ph¸t tõ yªu cÇu ®æi míi cña ®Êt níc, trong nh÷ng n¨m qua §¶ng, Nhµ níc ta ®· ®Æc biÖt quan t©m ®Õn ph¸t triÓn gi¸o dôc. Mét trong nh÷ng nhiÖm vô c¬ b¶n cña gi¸o dôc ®µo t¹o hiÖn nay lµ: h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn nh©n c¸ch cho häc sinh mét c¸ch toµn diÖn theo môc tiªu ph¸t triÓn nguån nh©n lùc phôc vô c«ng nghiÖp hãa - hiÖn ®¹i hãa ®Êt níc. V¨n häc lµ mét lo¹i h×nh nghÖ thuËt lÊy ng«n tõ lµm ph¬ng tiÖn thÓ hiÖn. Cã kh¶ n¨ng t¸c ®éng ®Õn ®êi sèng t©m hån cña con ngêi. Trong ®ã biÖn ph¸p so s¸nh gãp mét phÇn kh«ng nhá lµm nªn ®iÒu nµy. So s¸nh cã kh¶ n¨ng kh¾c häc h×nh ¶nh vµ g©y Ên tîng m¹nh mÏ lµm nªn mét h×nh thøc miªu t¶ sinh ®éng, mÆt kh¸c so s¸nh cßn cã t¸c dông lµm cho lêi nãi râ rµng, cô thÓ sinh ®éng, diÔn ®¹t ®îc mäi s¾c th¸i biÓu c¶m. So s¸nh tu tõ cßn lµ ph¬ng thøc béc lé t©m t t×nh c¶m mét c¸ch kÝn ®¸o vµ tÕ nhÞ. Nh vËy ®èi víi t¸c phÈm v¨n häc nãi chung so s¸nh mang chøc n¨ng nhËn thøc vµ biÓu c¶m. Nhê nh÷ng h×nh ¶nh bãng b¶y, íc lÖ, dïng c¸i nµy ®Ó ®èi chiÕu c¸i kia nh»m diÔn t¶ nh÷ng ngô ý nghÖ thuËt mµ so s¸nh tu tõ ®îc sö dông phæ biÕn trong th¬ ca, ®Æc biÖt lµ th¬ viÕt cho thiÕu nhi. So s¸nh tu tõ gióp c¸c em hiÓu vµ c¶m nhËn ®îc nh÷ng bµi th¬, bµi v¨n hay, tõ ®ã gãp phÇn më mang tri thøc lµm phong phó vÒ t©m hån, t¹o høng thó khi viÕt v¨n, rÌn luyÖn ý thøc, yªu quý TiÕng ViÖt gi÷ g×n sù trong s¸ng cña TiÕng ViÖt cho häc sinh. Trước sự phát triển của nền giáo dục hiện nay, trước công cuộc đổi mới. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của nền giáo dục nước nhà với khẩu hiệu “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc nâng cao chất lượng dạy học là yêu cầu cấp bách của toàn xã hội. Muốn có một xã hội phát triển bắt buộc xã hội đó phải có nền giáo dục phát triển toàn diện. Ngày nay Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và ưu tiên cho sự nghiệp giáo dục. Do đó mỗi giáo viên cần phải tự tìm tòi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm giảng dạy như: học qua sách báo, bạn bè đồng nghiệp, tham gia lớp đại học từ xa để nâng cao tay nghề, tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với từng môn học, từng đối tượng học sinh, đó chính là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.. Bởi thế, dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội , văn hoá giáo dục, thành tựu khoa học đều có liên quan đến việc dạy Tiếng Việt mà trong đó biện pháp so sánh góp một phần không nhỏ để làm nên điều đó . Mặt khác, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể, sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. Như vậy đối với tác phẩm văn học nói chung, so sánh mang chức năng nhận thức và biểu cảm. Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh được sử dụng phổ biến trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. Biện pháp so sánh giúp các em hiểu được sự giống nhau giữa các sự vật của thiên nhiên và cuộc sống, từ đó các em hiểu và cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, góp phần mở mang tri thức làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý Tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt . Biện pháp so sánh đã chính thức được đưa vào phân môn luyện từ và câu lớp 3. Điều đó khẳng định vai trò trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc hình thành cho học sinh kĩ năng nhận biết và sử dụng. Nhưng trong nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 3 tôi thấy phân môn này hơi trừu tượng đối với các em, nên các em chưa thực sự hứng thú trong giờ học, phần lớn các em học rất yếu nhất là phần nhận biết về các tu từ so sánh . Các em chưa xác định được đâu là từ chỉ sự so sánh, đâu là hình ảnh so sánh. Vì vậy tôi luôn băn khoan, trăn trở làm thế nào để khắc phục được tình trạng này để các em hứng thú say mê trong giờ học và nắm vững được biện pháp so sánh để áp dụng trong cuộc sống và áp dụng vào trong mỗi bài văn để bài văn sinh động, hấp dẫn. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 nhận biết và sử dụng tốt hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu" Xuất phát từ những yêu cầu trên nên tôi đã tự tìm hiểu về: II. Mục đích nghiên cứu Góp phần giúp học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp, biết phân biệt, biết cách sử dụng hình ảnh so sánh, tạo điều kiện để học sinh phát triển một cách toàn diện đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh về kỹ năng sử dụng hình ảnh so sánh. III.Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 3 tiểu học nói chung , học sinh lớp 3A tôi đang trực tiếp giảng dạy và học sinh lớp 3 đối với các trường dạy theo chương trình 30 tiết / tuần nói riêng. IV.Phạm vi nghiên cứu Năm học 2010 – 2012 và năm học 2011-2012. Bộ sách Tiếng Việt 3. tập 1 + 2, sách tham khảo về môn Tiếng Việt nói chung và phân môn luyện từ và câu nói riêng, các tạp trí Giáo dục tiểu học và một số tài liệu khác có liên quan. V.Phương pháp nghiên cứu +Phương pháp nghiên cứu tài liệu: - Đọc tài liệu, giáo trình, chuyên đề có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu -Đọc sách giáo khoa tiếng Việt 3 Học sinh + giáo viên, sách tham khảo: Luyện từ và câu lớp 3, Tiếng Việt 3 nâng cao nhà xuất bản Giáo dục, bài tập nâng cao Tiếng Việt 3 tập 1+2 nhà xuất bản quốc gia Hà Nội. +Phương pháp đàm thoại: bằng“hoạt động lời nói” giáo viên đưa ra một hệ thống câu yêu cầu học sinh trả lời. +Phương pháp trực quan: Tranh, ảnh, mô hình, vật thật +Phương pháp điều tra, đối chứng và tổng quát: Ở đây phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước, và cuối cùng đi tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm. PHẦN II: NỘI DUNG I. C¬ së lý luËn d¹y häc: M«n TiÕng ViÖt lµ mét trong nh÷ng bé m«n c¬ b¶n cña nhµ trêng phæ th«ng nªn ph¶i thùc hiÖn theo nguyªn t¾c gi¸o dôc häc. Bëi vËy nguyªn t¾c d¹y häc TiÕng ViÖt ph¶i cô thÓ hãa môc tiªu vµ c¸c nguyªn t¾c d¹y häc nãi chung vµo bé m«n cña m×nh. Nh vËy môc tiªu cña viÖc d¹y vµ häc TiÕng ViÖt n»m trong môc tiªu chung cña gi¸o dôc níc ta trong giai ®o¹n míi hiÖn nay: N©ng cao d©n trÝ, ®µo t¹o nh©n lùc, båi dìng nh©n tµi, nh»m h×nh thµnh ®éi ngò lao ®éng cã tri thøc, cã tay nghÒ, cã n¨ng lùc thùc hµnh, tù chñ, n¨ng ®éng s¸ng t¹o. II. C¬ së thùc tiÕn: Ch¬ng tr×nh d¹y häc chØ quy ®Þnh ph¹m vi d¹y häc cña c¸c m«n. Cßn nhiÖm vô cña SGK lµ tr×nh bµy néi dung cña bé m«n mét c¸ch râ rµng, cô thÓ vµ chi tiÕt theo cÊu tróc cña nã. SGK cã chøc n¨ng lµ lÜnh héi cñng cè nh÷ng tri thøc tiÕp thu ®îc trªn líp, ph¸t triÓn nh©n lùc trÝ tuÖ vµ cã t¸c dông gi¸o dôc häc sinh. SGK còng gióp gi¸o viªn x¸c ®Þnh néi dung vµ lùa chän ph¬ng ph¸p, ph¬ng tiÖn d¹y häc, tæ chøc tèt c«ng t¸c d¹y häc cña m×nh. III. Thực trạng: 1.Về sách giáo khoa: Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý. Mặc dù SGK đã chú trọng phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít, đơn điệu, kiến thức dạy học sinh còn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh hoạ nên học sinh còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức mới. 2.Về phía giáo viên: Người giáo viên còn gặp khó khăn về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học và tài liệu tham khảo còn ít. Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn Tiếng Việt với nhau, để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mò của phân môn này với phân môn khác trong môn Tiếng Việt. 3. Về phía học sinh: Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Vốn kiến thức văn học của học sinh, nhất là học sinh vùng nông thôn chúng tôi còn rất hạn chế. Vì đa số các em đều là con gia đình làm nông và buôn bán nhỏ. Một số em chưa có khả năng nhận biết về nghệ thuật, học sinh chỉ mới biết các sự vật một cách cụ thể. Nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỷ mỷ thực tế. 4.Về phía phụ huynh Chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em mình. Không thường xuyên kiểm tra đôn đốc và kèm cặp con em học ở nhà, có tư tưởng khoán trắng cho giáo viên, nhà trường. Qua khảo sát chất lượng về kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh của học sinh lớp 3A năm học 2011 - 2012 tôi đã thu được kết quả như sau: Tổng số HS Số học sinh đạt yêu cầu về nhận biết bienj pháp so sánh Số học sinh chưa có kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh Số học sinh không nhận biết biết biện so sánh 29 10 = 34,5 8 = 27,6 11 = 37,9 IV. Nội dung chương trình: Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài, tôi thống kê phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn: "Luyện từ và câu" của chương trình SGK lớp 3 để phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức lý thuyết về so sánh được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài ở các tuần: Tuần 1,3,5,7, 10,12,15 và tuần ôn tập 18. V. Những biện pháp cụ thể: ./ Dạy đúng quy trình : Để học sinh học tốt dạng bài so sánh . Bất cứ một bài tập nào, GV cũng cần làm theo các yêu cầu sau: Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài, học sinh làm bài và phải lí giải được đáp án của mình , giáo viên chốt lại giải thích cho học sinh rõ vì sao có đáp án đó . * Ví dụ : Bài tập 2 (Trang 8): Tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ sau: Ơ cái dấu hỏi Trông ngộ ngộ nghê Như vành tai nhỏ Hỏi rồi lắng nghe -Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề. -Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật. Cho HS nêu một vài ví dụ về sự vật ở xung quanh. -HS gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật được so sánh với nhau vào SGK - Học sinh trình bày ( Giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lại sao em chọn từ đó ) - Giáo viên đưa ra đáp án : Sự vật so sánh Từ so sánh Sự vật so sánh Cái dấu hỏi như vành tai nhỏ + Giáo viên có thể vẽ lên bảng hoặc giải thích cho học sinh hiểu Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn). * Chú ý : Phương pháp này có hiệu quả nhất là sử dụng khi tìm hiểu bài . 2. Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các môn học: 1) Tích hợp trong môn Tiếng Việt : Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt , giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau. Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang 7). Trong bài này có rất nhiều hình ảnh so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của phân môn: "Luyện từ và câu". Giáo viên có thể cho học sinh tìm các câu thơ có sử hình ảnh so sánh . Ví dụ 2 : Khi dạy bài Tập đọc “ Cửa Tùng ”, để giải thích từ ngữ (chiếc thau Đồng , chiếc lược đồi mồi ) GV có thể cho học sinh tìm câu văn có sử dụng biện pháp so sánh . Học sinh sẽ dễ dàng tìm ra câu : - Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển . - Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển. Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và sẽ áp dụng tốt trong việc viết văn của nình . 2) Tích hợp Biện pháp tu từ so sánh qua các môn học khác : a) Dạy Tự nhiên xã hội : Khi dạy bài “ Các thế hệ trong gia đình’’ Giáo viên có thể cho học sinh tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về tình cảm của những ngưòi thân trong gia đình . Học sinh đại trà tìm tự do . Học sinh giỏi , giáo viên có thể yêu cầu cao hơn( có sử dụng biện pháp so sánh ) -Anh em như thể chân tay -Con hơn cha là nhà có phúc -Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra 3./ Dạy theo mô hình : Bài tập về so sánh lớp 3 được chia làm 2 dạng: -Dạng 1: Bài tập theo mẫu(Bài tập nhận biết ). Trọng tâm -Dạng 2: Bài tập sáng tạo ( Bài tập vận dụng ) 1. Dạng 1 : Giúp học sinh nhận biết các từ chỉ sự vật so sánh . Dạng bài tập này rất đơn giản. Chủ yếu là nhận biết các sự vật so sánh thông các bài tập . Dạng này chiếm đa số trong chương trình . * Mô hình 1: So sánh : Sự vật – Sự vật * Mô hình 2: So sánh : Sự vật - Con người * Mô hình 3: So sánh : Hoạt động – hoạt động * Mô hình 4: So sánh : Âm thanh – Âm thanh Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết hình ảnh so sánh vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới . Dựa vào các mô hình như ta vừa phân tích . 1.1 Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật: Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ so sánh (như, là , giống , tựa, chẳng bằng ...) Mô hình này có các dạng sau: A như B ; A là B ; A chẳng bằng B a) Tìm hiểu dạng A như B Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và xuyên suốt đến cuối chương. * Ví dụ: Bài 2( SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây: "Hai bàn tay em Như hoa đầu cành" (Huy Cận) "Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch" (Vũ Tú Nam) "Cánh diều như dấu á Ai vừa tung lên trời" (Phạm Như Hà) Để làm tốt bài tập này thì học sinh phải xác định được những từ chỉ sự vật ở từng câu văn, từ đó các em sẽ nhận diện được biện pháp so sánh . Có 2 phương án Phương án 1: Cho HS làm bài cá nhân: “Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút chì vào SGK.” Phương án 2: Cho học sinh thảo luận nhóm đôi và làm bài vào vở bài tập. Học sinh trình bày : + "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành" + "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ". + "Cánh diều" so sánh với "dấu á" + "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ". Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Sự vật: Hai bàn tay của bé /bông hoa. Giống nhau nhỏ xinh Sự vật: Mặt biển / tấm thảm . Giống nhau đều phẳng, êm và đẹp. Sự vật: Cánh diều /dấu á. Giống nhau có hình cong cong, võng xuống (Giáo viên đưa hình ảnh "Cánh diều" và "Dấu á” cho học sinh quan sát) b)Tìm hiểu dạng A là B: Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh với câu giới thiệu . Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ” Ví dụ :(Bài 1c, d trang 24,25): Tìm các hình ảnh so sánh trong câu : c/ Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong câu thơ : ( trời mùa đông – tủ ướp lạnh ), ( trời mùa hè – bếp lò nung) và HD học sinh tìm sự giống nhau, sự tương đồng của các sự vật được so sánh . Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh ( giống nhau đều lạnh) Trời mùa hè nóng như bếp lửa lò nung (giống nhau nóng) d) Những đêm trăng sáng , dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng (giống nhau dài, có màu vàng) Ở trường hợp này từ là ở đây mang tính chất so sánh . Còn trong câu : Mẹ tôi là giáo viên ( từ là ở đây có tác dụng giới thiệu. Trong trường hợp này học sinh phải hiểu nghĩa của từ và của câu ) 1.2 Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người. Dạng cuả mô hình so sánh này giáo viên cần lưu ý học sinh phân biệt được hai loại so sánh : So sánh ngang bằng và so sánh hơn kém a) Dạng A như B: + A có thể là con người. + B là sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh. Ví dụ: Bài tập 1/trang 58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây: "Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan" (Hồ Chí Minh) "Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng". (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm 2. Đọc từng khổ thơ, dùng bút chì gạch dưới những hình ảnh được so sánh với nhau ở từng khổ thơ và khoanh tròn vào từ chỉ sự so sánh sau đó trả lời đây là kiểu so sánh gì? Sau khi học sinh trình bày đúng giáo viên sẽ hướng dẫn và giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: "Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. "Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ già giặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng. b)Dạng A là B:( kiểu so sánh ngang bằng) Ví dụ : Bài tập 1/ trang 42,43( phương pháp dạy như mô hình 1) "Ông là buổi trời chiều Cháu là ngày rạng sáng" c) Dạng A chẳng bằng B: :( kiểu so sánh hơn kém) Ví dụ: Bài tập 1c/trang 43 : Tìm các hình ảnh so sánh trong câu : Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con Trần Quốc Minh Dạng bài tập này chỉ cần học sinh thực hiện được hai yêu cầu : - Xác định sự vật so sánh ( ngôi sao - mẹ ) - Xác định từ so sánh ( Chẳng bằng ) và nắm được đây là kiểu so sánh hơn kém. Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh so sánh . 1.3: Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động. Mô hình này có dạng như sau: + A x B. + A như B. * Ví dụ: Bài tập 2 /trang 98: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: + "Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đạp đất" (Trần Đăng Khoa) + "Cau cao, cao mãi Tàu vươn giữa trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi" (Ngô Viết Dinh) Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như". + Hoạt động “ Vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “ vẫy” tay của con người . 1.4: Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh: Mô hình này có dạng sau: A như B: + A là âm thanh thứ 1. + B là âm thanh thứ 2. Ví dụ: (Bài tập 2 trang117): Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, văn dưới đây: Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn: + "Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai" (Nguyễn Trãi) Âm thanh của "Tiếng suối" được so sánh với âm thanh của "Tiếng đàn cầm" qua từ "như". 2. Dạng 2 : Bài tập sáng tạo Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn.tuy nhiên , dạng bài tập này trong SGK rất ít . Nó tập trung ở cuối chương trình HKI gồm 2 bài tập . 2.1: Nhìn tranh đặt câu Ví dụ: Bài tập 3/SGKtrang126: Quan sát từng cặp tranh rồi viết các câu có hình ảnh so sánh. Với dạng bài tập này giáo viên cần yêu cầu học sinh thự hiện theo các bước sau: * Bước 1: Quan sát tranh * Bước 2: Nêu tên từng cặp sự vật được so sánh với nhau trong tranh. Tranh 1: Mặt trăng và quả bóng Tranh 2: khuôn mặt ( nụ cười) và bông hoa Tranh 3. ngọn đèn và trăng sao Tranh 4. hình dáng nước ta và chữ s *Bước 3: Tìm ra sự giống nhau, sự tương đồng của từng cặp sự vật và đặt câu có hình ảnh so sánh. -Ông trăng tròn như quả bóng. -Mặt bé tươi nhu hoa. - Xa xa những ngọn đèn điện lấp lánh như sao trên trời. -Đất nước ta cong cong hình chữ s. 2.2: Dạng bài tập điền khuyết : Ví dụ : Bài tập 4 / SGKtrang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống : a)Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như... b)Trời mưa, đường đất sét trơn như... Ở mỗi câu , giáo viên nên để học sinh xác định sự vật đã cho để cho học sinh có thể tìm nhiều từ cần điền . Ví dụ : a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn , như sông như biển b) như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu ... Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy , nhất là các tiết Tiếng Việt (Tăng cường) Giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức. Ví dụ: trong các tiết tăng cường giáo viên có thể đưa thêm các dạng bài tập như sau để củng cố: Ví dụ: Viết lại những câu văn dưới đây cho sinh động gợi cảm bằng cách sử dụng các hình ảnh so sánh. Mặt trời mới mọc đỏ ối Mặt biển phẳng lặng rộng mênh mông Con đường tới trường quanh co, uốn khúc. Với dạng bài tập này giáo viên yêu cầu học sinh phải nắm được nội dung của câu cho sẵn rồi liên tưởng, tưởng tượng, tìm hình ảnh so sánh tương đồng, tạo ra câu văn sinh động, gợi cảm. Ví dụ: Mặt trời mới mọc như một chiếc mân đồng đỏ ối. Mặt biển phẳng lặng rộng mênh mông như một tấm thảm khổng lồ. c)Con đường tới trường quanh co, uốn khúc như một con trăn lớn đang trườn về phía trước. Viết một đoạn văn ngắn kể thành thị trong đó có sử dụng ít nhất 2 câu có hình ảnh so sánh. Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ sơ sánh như : Tựa, giống , giống như , không thua, không khác. ( So sánh bằng ) và các từ hơn , kém, thua , chẳng bằng ( so sánh hơn kém ). IV/ Trò chơi học tập : Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện , học là mục đích . Thông qua hình thức chơi mà học, học sinh sẽ được hoạt động , tự củng cố kiến thức .Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả, cần xác định mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi cần phải đơn giản, dễ hiểu. Ví dụ : Trò chơi “ Thử tài so sánh” Mục đích: - Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cum từ có hình ảnh so sánh đúng . - Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng , liên tưởng về hoạt động hay đặc điểm, tính chất ...của sự vật. Chuẩn bị : - Làm các bộ phiếu bằng giấy ( Kích thước : 3 x 4 cm) - Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng thái , đặc điểm, màu sắc của sự vật ( Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học ) . Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ hoạt động, trạng thái , đặc điểm , tính chất. Ví dụ : + Bộ phiếu A( 5 từ chỉ hoạt động,trạng thái) : Đọc , viết cười ,nói , khóc ( Dành cho Tiết 7: ôn tập từ chỉ trạng thái , tính chất ) + Bộ phiếu B ( 5 từ chỉ màu sắc )Trắng , xanh, đỏ, vàng , đen ( Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh ) + Bộ phiếu C ( 5 từ chỉ đặc điểm , tính chất ): đẹp, cao, khoẻ, nhanh, chậm ( Dành cho tiết 14 , 17: ôn tập từ chỉ đặc điểm ) - Phiếu được gấp tư để “bốc thăm” - Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi . Tiến hành : Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xụng phong lên thử tài so sánh ( 1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”). Học sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe rồi nêu thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó. Ví dụ: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cụm từ so sánh: trắng như tuyết, trắng như vôi, trắng như trứng gà bóc ). Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng- Sai + Mỗi kết quả đúng được 2 điểm . +Nếu trọng tài đếm từ 1-5 vẫn không nêu được kết quả thì không có điểm . Lần lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài. Hết 5 phiếu thì về chỗ , thư kí công bố kết quả . Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có số điểm cao nhất là người thắng cuộc. Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh động của giáo viên . Cũng có thể mỗi học sinh lần lược bốc cả 5 phiếu . Mỗi phiếu chỉ cần nêu 1 cụm từ . Người thứ không được nêu lặp cụm từ của người trước . Hoặc cũng có thể bốc cả 5 phiếu và tiến hành theo nhóm . Nhóm nào tìm được nhiều cụm từ nhất thì nhóm đó thắng . Tham khảo: Gợi ý các cụm từ có hình ảnh so sánh nêu ở mục chuẩn bị Bộ phiếu A: ( 5 từ chỉ hoạt động, trạng thái) -Đọc : Đọc như đọc kinh, đọc như rên rỉ, đọc như cuốc kêu,. -Viết : viết như gà bới , viết như giun bò , viết như rồng bay phượng múa, -Cười : cười như nắc nẻ, cười như pháo nổ , cười như mếu, ... -Nói : nói như khướu, nới như vẹt, nói như Trạng Quỳnh, -Khóc : khóc như mưa, hkhóc như ri, hkhóc như cha chết , ... Bộ phiếu B ( 5 phiếu từ chỉ màu sắc ): -Trắng : trắng như trứng gà bóc , trắng như tuyết , trắng như vôi, trắng như -Xanh: xanh như tàu lá, xanh như pha mực, xanh như nước biển ... -Đỏ : Đỏ như máu , đỏ như son, đỏ như gấc ,đỏ như ớt , -Đen : đen như than, đen như gỗ mun, đèn như cột nhà cháy . -Vàng: vàng như nghệ, vàng như mật ong, vàng như tơ,.. Bộ phiếu C: ( 5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất ) -Đẹp : đẹp như tiên, đẹp như hoa, đẹp như tranh,đẹp như mơ,... -Cao: cao như núi , cao như ngọn tháp , cao như sếu , cao như cây sào ,.. -Khoẻ : khoẻ như voi, khoẻ như trâu, khoẻ như bò mộng , khoẻ như hổ, -Nhanh: nhanh như sóc , nhanh như điện, nhanh như cắt, nhanh như gió , -Chậm: chậm như sên, chậm như rùa, ... V. KẾT QUẢ Khi hướng dẫn học sinh tìm hình ảnh so sánh và sử dụng triệt để các biện pháp trên . Tập trung trò chơi ở phần củng cố và các tiết tăng cường, tôi vô cùng vui sướng khi thấy học sinh lớp tôi đạt được kết quả ở kỳ thi cuối kì về phân môn luyện từ và câu nói riêng và môn tiếng Viết nói chung như sau: Lớp 3A . tổng số 29 học sinh. HS có kĩ năng nhận dạng và sử dụng tốt hình ảnh so sánh HS có kỹ năng nhận dạng và sử dụng được hình ảnh so sánh. HS chưa có kỹ năng nhận dạng và sử dụng hình ảnh so sánh Đầu năm 10 = 34,5% 8 = 27,6% 11 = 37,9% Cuối kì I 20 = 67% 9 = 31% PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Qua kinh nghiệm rèn kỹ năng nhận biết và sử dụng hình ảnh so sánh cho học sinh lớp 3. Bản thân tôi thấy rằng cần hướng và rèn cho học sinh những kỹ năng sau: * Về phía học sinh: - Chuẩn bị kĩ bài trưứoc khi đến lớp . - Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh... - Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường sau mỗi bài học: "Luyện từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức. - Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài, phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài. - Khi quan sát sự vật , cần quan sát thận tinh tế để tìm ra những điểm giống nhau, những nét tương đồng . -Biết vận dụng vào trong các tiết tập làm văn. * Về phía giáo viên : - Sau mỗi bài học, giáo viên phải dành thời gian cho phần dặn dò bài sau thật cụ thể . Có như vậy học sinh mới chuẩn bị tốt bài mới . - Luôn có sự kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh . Nhận xét cụ thể. - Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy . Định hướng cụ thể phương pháp và hình thức tổ chức cho từng hoạt động .Phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động . - Luôn gắn lí thuyết với thực hành. - Phải trực quan, không thể thiếu đồ dùng dạy học ( Mô hình, kí hiệu , tranh, ảnh..,) - Hệ thống ngôn ngữ phải trong sáng , gần gũi, dễ hiểu. - Nếu dự định tổ chức trò chơi học tập thì phải chuẩn bị kĩ . Lường trước các tình huống sư phạm có thể xảy ra.( Học sinh có thể dùng từ thiếu tính sư phạm ,...) không chơi ngẫu hứng , tuỳ tiện . II. Ý NGHĨA Qua quá trình suy nghĩ và tìm tòi, tôi đã tìm thấy một số biện pháp như đã nêu ở trên để rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3. Qua việc áp dụng những biện pháp trên tôi thấy kỹ năng nhận biết của học sinh lớp 3 tôi dạy đã được nâng lên đáng kể . Học sinh không những nhận biết mà cờn sử dụng tốt biện pháp so sánh . Góp phần đáng kể vào việc viết văn và diễn đạt bằng ngôn ngữ của học sịnh. Tôi nghĩ, phương pháp này rất đơn giản, dễ sử dụng và hiệu quả . III.KIẾN NGHỊ: Để giúp học sinh nhận biết và sử dụng hình ảnh so sánh đạt hiệu quả cao, tôi mạn phép đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau: Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên nhất là phân môn Luyện từ và câu. -Về phía nhà trường cần đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học phải được đầy đủ, phong phú. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc “Giúp học sinh lớp 3 nhận biết và sử dụng tốt biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu”. Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không có tham vọng đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà chỉ nêu một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích lũy được trong quá trình giảng dạy, mong được chia se với “các bạn đồng nghiệp”. Vậy tôi rất mong đón nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để đề tài của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngày 15 tháng 01 năm 2012 Nhận xét đánh giá của hội đồng khoa học MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Lý do chọn đề tài ý do 1 Mục đích nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu 2 Phạm vi nghiên cứu 2 Phương pháp nghiên cứu 2 PHẦN II NỘI DUNG Thực trạng 4 Nội dung chương trình 5 Những biện pháp cụ thể 5 PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ kết luận 18 Ý nghĩa 19 kiến nghị 19 2/ Gợi ý thêm một số bộ phiếu để “ thử tài so sánh” Bộ phiếu D: ( 5 từ chỉ trạng thái) Buồn : buồn như đưa đám, buồn như mất của, buồn như cha chết ,... Vui: vui như tết, vui như hội, vui như bắt được vàng, vui như mở cờ trong bụng ,... Sướng : sướng như tiên , sướng như vua, sướng như ông Hoàng(vua) Khổ : khổ như trâu ngựa, khổ như ăn mày, khổ như nô lệ,... Im: im như thóc , im như hến , im như ngủ,... Bộ phiếu E: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất ) Lạnh : lạnh như tiền, lạnh như đồng , lạnh như ướp đá , lạnh như băng,... Nóng : nóng như thiêu, nóng như lửa đốt, nóng như bếp lò nung,... Chua: chua như dấm , chua như mẻ, chua như khế ,... Ngọt : ngọt như đường cát, ngọt như mía lùi , ngọt như mật ong,... Đắng : đắng như bồ hòn, đắng như mật gấu, Bộ phiếu G: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất ) Gầy : gầy như cò hương, gầy như hạc, gầy như que tăm, gầy như cây củi, gầy như ống sậy,... Hiền : hiền như phật, hiền như bụt, hiền như cô Tấm , hiền như đất ,... Dữ : dữ như báo, dữ như cọp, dữ như hổ, dữ như chó sói ,... Tròn : tròn như bi ve, t
Tài liệu đính kèm: