Giáo án lớp 10 môn ngữ văn - Dàn ý phân tích đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

docx 5 trang Người đăng phongnguyet00 Lượt xem 20127Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án lớp 10 môn ngữ văn - Dàn ý phân tích đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo án lớp 10 môn ngữ văn - Dàn ý phân tích đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
DÀN Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN 1 CỦA BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO CỦA NGUYỄN TRÃI
MỞ BÀI.
Giới thiệu tác giả: Tác giả Nguyễn Trãi sinh năm 1380. Ông là bật kì tài về chính trị, quân sự, văn học và ông đã từng theo Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh lập nhiều công lao cho nước nhà. Về sự nghiệp văn chương, ông có nhiều tác phẩm văn học lớn như: Quốc Âm Thi Tộc, Ức Trai tập.và không thể nhắc đến bài “Bình Ngô đại Cáo” – là một trong những tập thơ viết bằng chữ Hán hay nhất của ông.
Giới thiệu tác phẩm: 
+ HCST: Khởi nghĩa Lam Sớn thắng lợi, Nguyễn Trãi thừa lệnh viết tác phẩm này được ộng viết theo chữ Hán.
Dẫn dắt vào luận đề: Toàn bộ mục đích của bài Cáo hầu như đã được gửi trọn vẹn qua đoạn 1 của bài.
Dẫn thơ
Chuyển ý.
THẦN BÀI
Dẫn dắt
Cáo là thể loại thường cho vua chúa dùng để công bố cho nhân dân được viết theo thể văn biền ngẫu. “Đại Cáo” là bài cáo có tầm quan trọng ảnh hưởng đến quốc gia, đất nước. Sở dĩ ở đây tác giả gọi giặc Minh là giặc ngô nhằm thể hiện thái độ khinh bỉ, căm hờn trước sự giã man của giặc Minh – một lũ giặc độc ác đã đi vào ký ức người Việt.
Phân tích đoạn 1
Đầu tiên tác giả khẳng định cuộc kháng chiến chống giặc Minh là hoàn toàn xuất phát từ nhân nghĩa, do dân vì dân:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
* Nhân: người, tình người (theo Khổng Tử)
* Nghĩa: việc làm chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
=> Nhân nghĩa (theo Nho Giáo) là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý.
* Chữ “nghĩa” trong câu trên cũng giống chữ “ngãi” trong “Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” (“Lục Vân Tiên” – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
* Nguyễn Trãi đã “Việt hóa” tư tưởng nhân nghĩa, chắt lọc những gì cơ bản nhất. Trong quan niệm của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là lo cho dân (“cốt ở yên dân”); là thương dân (“quân điếu phạt” – rút từ ý “điếu dân phạt tội” trong “Kinh Thư”); vì dân mà diệt trừ gian ác (“lo trừ bạo”) chống ngoại xâm, bóc trần bộ mặt gian ác của kẻ thù, khẳng định dân tộc ta chiến tranh vì chính nghĩa.
=> Tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự kết hợp tinh túy giữa nhân nghĩa và thực tiễn dân tộc.
* Điều này được thể hiện rất nhiều trong các sáng tác khác của nhà thơ. Trong “Thư trả lời Phương Chính” trích “Quân trung từ mệnh tập” ông đã phê phán sự xảo trá của quân Minh: “Nước mày nhân họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là điếu dân phạt tội, kỳ thực làm việc bạo tàn, ăn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, vơ vét của quý, nhân dân không được sống yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?”
=> Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường của nhân dân, dân tộc nêu cao nhân nghĩa, vạch trần tội ác, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của quân thù.
=> Tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Trãi mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông thực thi, đề cao và tuyên truyền nhân nghĩa để dành quyền lợi cho nhân dân, đoạt lại quyền sống, độc lập, tự do, trả lại cho nhân dân cuộc sống bình yên.
=> Điều này giúp ta hiểu thêm về nhân cách và con người Nguyễn Trãi: một người trung hiếu với nước với dân.
Tiếp theo, tác giả khẳng định đất nước ta vốn có chủ quyền độc lập từ xưa đến nay.
Sau “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Đại cáo bình Ngô” được tôn là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai. Khi viết những lời này, Nguyễn Trãi đã truyền cho dân chúng niềm tự hào dân tộc, lòng vui sướng khôn siết khi đất nước lại được thái bình. Bằng giọng điệu hào hùng, khảng khái, ông đưa ra những lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Nguyễn Trãi đưa ra những cơ sở khẳng định chủ quyền dân tộc như sau:
* Văn hiến: Tác giả khẳng định: Qua bao năm bị giặc phương Bắc đô hộ, bị biến thành một quận của nước chúng, cái tên Đại Việt vẫn được giữ gìn, khôi phục, rồi lại được trang trọng đặt trong bản tuyên ngôn “Bình Ngô đại cáo”. Năm tháng và ác mưu của quân xâm lược không thể bào mòn nét đẹp văn hiến, văn hóa dân tộc ta – những giá trị tinh thần được hình thành “đã lâu”, có “từ trước” mấy nghìn năm vẫn tồn tại trong tiềm thức mỗi con dân Việt.
* Lãnh thổ: Ranh giới lãnh thổ phương Bắc, phương Nam đã được phân định từ ngàn đời trước. Từ khi giặc Minh chưa kéo đến cướp nước, nhân dân ta vẫn ngày ngày cầy cấy trên đất đai quê hương, răn dạy con cháu thế hệ sau tiếp tục giữ gìn và bảo vệ mảnh đất thiêng liêng và thân thuộc ấy. Trước đó, người Việt cũng vì bảo vệ “núi sông bờ cõi” dân tộc mà đổ bao mồ hôi, xương máu, quyết chiến với kẻ thù để khẳn định lãnh thổ Đại Việt không ai có thể xâm phạm. Liên hệ với “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt viết: “Nam quốc sơn hà nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tai thiên thư”. Thay vì phân định lãnh thổ dựa vào “sách vở” yếu tố thần thánh như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi vạch ra ranh giới Trung Quốc, Việt Nam dựa trên lịch sử.
*Phong tục: Nguyễn Trãi nêu ra mệnh đề này để nhấn mạnh rằng: Mỗi đất nước đều có phong tục tập quán riêng, Đại Việt cũng vậy. Là một quốc gia độc lập, dân tộc ta ta có tục nhuộm răng đen, ăn trầu, trồng lúa nước, gói bánh chưng,.. những truyền thống không có ở các dân tộc khác. Từ đó khẳng định Đại Việt độc lập hoàn toàn với Trung Quốc.
* Lịch sử riêng, chế độ riêng: Ức Trai liệt kê các thời kỳ lịch sử dân tộc, từ đời Triệu đến Đinh, Lí, Trần. Những triều đại này song song tồn tại với Hán, Đường, Tống, Nguyên ở Trung Quốc. Bằng cách lập luận đối chiếu, so sánh, ông tỏ rõ niềm tự hào dân tộc. Trong “Nam quốc sơn hà”, từ “đế” của Lý Thường Kiệt dùng để chứng tỏ đạo lý một nước không thể có hai vua. Còn từ “đế” mà Nguyễn Trãi sử dụng để khẳng định vua Việt Nam ngang hàng với vua Trung Quốc. => Sự tiến bộ trong tư tưởng Ức Trai.
* Nhân tài: Tuy hưng thịnh từng lúc khác nhau, song đời nào cũng anh hùng. Từ Bà Trưng, Bà Triệu đến Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, dù là nam hay nữ, già hay trẻ, đều vì nghiệp lớn của dân tộc mà xả thân. Những người tài này đã tạo nên những trận đánh huy hoàng: trận Bạch Đằng (938; 1288) vang danh sử sách, trận Như Nguyệt (1077) chiến thắng cuộc chiến chống Tống, trận Chi Lăng Xương Giang (1427) khiến tướng quân Minh chưa xin phép triều đình đã tự ý rút về nước. => Con người đã tạo nên những trang sử vàng chói lọi.
=> So với bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi đã đưa ra thêm ba luận điểm nữa là văn hiến, phong tục, lịch sử để chứng minh quyền độc lập, tự do của đất nước.
NT: 
+ Liệt kê ra hoàng loạt những dấu hiệu cho thấy chủ quyền nước ta
+ Hàng loạt những từ ngữ ngữ chỉ sự hiển nhiên tất yếu
Khẳng định sự tồn tại đã lâu đời, không thể thay đổi được.
So ánh các triều đại của nước ta và Trung Quốc, thể hiện niều tự hào dân tộc.
Cuối cùng tác giả đưa ra hàng loạt những dẫn chứng trong LS để thuyết phục.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.”
Ở đoạn thơ này, NguyễnTrãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Và cũng chính tại đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới. Tác giả nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “ Hàm Tử”, “ Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ , có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà. Tất cả những trang sử hào hùng, vẻ vang ấy, đều đã được sử sách ta cẩn thận ghi lại, không thể chối cãi, và không ai có thể thay đổi. Đây cũng chính là tinh anh, tinh hoa trong tư tưởng của nhà thơ.
=> Bằng giọng văn đanh thép, hùng hồn, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, tác giả khẳng định giặc Minh xâm lược là sai trái, ko thể chấp nhận được, do đó chúng ta kháng chiến là tất yếu
Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
KẾT BÀI
Tóm lại, tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn đầu là một sự thành công của Nguyễn Trãi, là mở đầu cho áng văn thiêng cổ “Bình Ngô Đại Cáo”. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.

Tài liệu đính kèm:

  • docx145.docx