Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 12 thpt năm học 2015 - 2016 môn: Ngữ văn

doc 5 trang Người đăng phongnguyet00 Lượt xem 763Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 12 thpt năm học 2015 - 2016 môn: Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 12 thpt năm học 2015 - 2016 môn: Ngữ văn
KÌ THI CHỌN HSG LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2015-2016
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN -THPT
Thời gian: 180 phút, không kể thời gian giao đề.
Câu 1 (8 điểm).
          Anh/chị có suy nghĩ gì về câu nói của Fran KA.Clark:
“Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao, nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều rất nhỏ”.
   (Dẫn theo “Hành trang vào đời”, NXB Tổng hợp tp Hồ Chí Minh – 2008)
* Chọn 1 trong 2 câu.
Câu 2.a (12 điểm).
          Mỗi bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú.
          Cảm nhận của anh/chị về một bài thơ như thế.
Câu 2.b (12 điểm):
          Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
    (...)Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
         Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...
        Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ hết được dây trói trên người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng « Đi ngay », rồi nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên chạy.
        Mị đứng lặng trong bóng tối.
       Rồi Mị cũng chạy vụt ra ngoài. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đã đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. (...)
                  (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 14)
     (...)Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói : - Điêu ! Người thế mà điêu !
        Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
        - Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
        À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
        - Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
        - Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu
        Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
        - Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
        Hắn vỗ vỗ vào túi.
        - Rích bố cu, hở !
        Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả :
        - Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
        Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng thở :
        - Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
        Hắn cười : - Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
        Nói thế Tràng cũng tưởng nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu, anh chàng cũng chợn, nghĩ : thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết thế nào hắn tặc lưỡi một cái : - Chậc, kệ ! (...)
                  (Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 26)
ĐÁP ÁN 
Yêu cầu cụ thể:
Câu 1 (8 điểm).
1.Giải thích:
- Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao: khát vọng hướng tới những cái đích của đời người, làm thay đổi cuộc sống theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
- nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều rất nhỏ: không ý thức được rằng những việc lớn bao giờ cũng phải bắt đầu từ nhiều việc nhỏ, như những dòng sông được tạo thành từ nhiều con suối...
2. Bình luận:
- Mơ ước làm nên điều lớn lao là nguyện vọng chính đáng của mọi người, cần được tôn trọng, động viên, khuyến khích.
- Nhưng phải luôn ý thức rằng:
   + Một nhân cách hoàn thiện vốn được bồi đắp từ những việc làm rất nhỏ, nhất là những hành vi đạo đức, lối sống. Ý nghĩa của cuộc sống cũng được kiến tạo từ những điều đơn sơ, bình dị.
   + Phê phán lối sống, cách nghĩ, lời nói ngụy biện: vì việc lớn mà quên việc nhỏ, muốn trở thành vĩ nhân mà quên mình cũng là một con người bình thường.
3. Bài học:
- Nhận thức sâu sắc rằng, việc gì nhỏ mấy mà có ích thì kiên quyết làm...
- Thường xuyên rèn luyện đức tính kiên nhẫn, bắt đầu từ những việc làm nhỏ để có thể hướng tới những điều lớn lao.
Câu 2.a (12 điểm)
          Đề kiểm tra năng lực tổng hợp kiến thức lí luận văn học, cảm thụ tác phẩm và kĩ năng vận dụng các thao tác lập luận.
          Sau đây là một số gợi ý:
1.Giải thích:
          - Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo: mới mẻ về nội dung, đặc sắc về nghệ thuật.
          - Có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú: gợi nhắc các tác phẩm văn học nghệ thuật khác, đánh thức những rung động trong lòng người ...
2. Cảm nhận về một bài thơ như thế:
          Học sinh có thể chọn một bài thơ theo cảm nhận riêng của mình, miễn là:
          - Bài viết chỉ ra và phân tích được những đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, sáng tạo hình ảnh, nhịp điệu, xây dựng hình tượng,... để làm nổi bật cảm xúc của chủ thể trữ tình.
          - Từ cảm nhận về bài thơ, người viết có được những liên tưởng đa chiều hướng đến những lời thơ, câu văn đẹp khác có nét gần gũi về đề tài, chủ đề, bút pháp...; gợi những cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống...
3. Đánh giá:
          - Đóng góp của bài thơ về nội dung và nghệ thuật.
          - Người đọc cần có ý thức bồi dưỡng tâm hồn, trau dồi kĩ năng, tích lũy kiến thức để phát huy khả năng liên tưởng trong quá trình cảm nhận tác phẩm văn học.
Câu 2.b(12 điểm) 
I. Yêu cầu về kĩ năng:
Biết làm bài văn nghị luận về một đoạn văn kết hợp với kiểu bài so sánh văn học. Văn viết có cảm xúc, hình ảnh; bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ; không mắc lỗi về dùng từ, chính tả, diễn đạt, kiến thức và ngữ pháp. Bài viết có tầm khái quát.
Có thể có nhiều cách trình bày nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Giới thiệu về các tác giả, tác phẩm và các đoạn trích (0,5 điểm):
2. Cảm nhận được cái hay cái đẹp của mỗi đoạn trích(4,0 điểm):
a.   Đoạn trích trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (2,0 điểm):
Trên cơ sở hiểu biết về tác phẩm Vợ chồng A Phủ, thí sinh cần phát hiện, phân tích để làm rõ giá trị của đoạn văn.
* Về nội dung:
Cần thấy được :
- Tình cảnh nguy kịch của A Phủ : bị trói đứng trong cảnh đói khát, giá lạnh, đau đớn và sắp chết (0,25 điểm).
- Diễn biến tâm trạng của Mị khi cắt dây trói cứu A Phủ rồi đi theo A Phủ: những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ  bị trói đứng Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ). Từ  cảnh ngộ  của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia việc gì mà phải chết. Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế  Mị... cũng không thấy sợ. Tình thương và lòng căm thù  đã giúp Mị có sức mạnh để quyết định cứu người và liều mình cắt dây trói cứu A Phủ. Đối mặt với hiểm nguy, Mị  cũng hốt hoảng...; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ (0,75 điểm).
- Ý nghĩa đoạn trích: Phản ánh nỗi thống khổ; ca ngợi tình thương và sức sống mãnh liệt của người dân miền núi trước Cách mạng. Đoạn trích có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo (0,25 điểm).
 * Nghệ thuật :
- Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn (0,25 điểm).
- Cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí  đã tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục ; kết hợp miêu tả tâm lí nhân vật qua miêu tả nội tâm và hành động; ngôn ngữ nhà văn mang giọng điệu và ngôn ngữ nhân vật (0,5 điểm).
b.   Đoạn trích trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân(2,0 điểm):
Trên cơ sở hiểu biết về tác phẩm Vợ nhặt, thí sinh cần phát hiện, phân tích để làm rõ giá trị của đoạn văn.
* Nội dung :
Cần thấy được :
- Tình cảnh bi thảm, cùng cực và sức sống mãnh liệt của người đàn bà khốn khổ : Ví cái đói mà thân hình tiều tụy, áo quần rách rưới, tính cách trở nên cong cớn, chao chát, hành động trở nên lỗ mãng, thô kệch, mất hết cả nữ tính, danh dự. Thị bám lấy Tràng để thoát khỏi sự truy đuổi ráo riết của cái đói. Đó cũng là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt khi con người phải đối mặt với cái chết (0,5 điểm).
- Tình người và khát vọng hanh phúc mãnh liệt của nhân vật Tràng : Thết đãi, cưu mang một người đàn bà lạ trong tình cảnh đói khát thê thảm bằng tất cả sự nồng hậu, chân thành dù mình cũng nghèo khổ. Tràng cưu mang người đàn bà ấy xuất phát từ tình thương và từ khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của một người khó có cơ hội để đến với hạnh phúc. Tràng nhận thức rất rõ tình cảnh nghèo khổ của mình nhưng vẫn quyết định đưa người đàn bà ấy về như một sự thách thức với số phận để giành lấy hạnh phúc cho mình (0,5 điểm).
- ý nghĩa đoạn trích: Phản ánh nỗi bi thảm; ca ngợi tình người và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của con người trong nạn đói. Đoạn văn giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo (0,25 điểm).
* Nghệ thuât:
- Tạo tình huống truyện độc đáo, thú vị, bất ngờ và hấp dẫn (0,25 điểm).
- Tạo đối thoại rất tự nhiên, chân thực, phù hợp với tính cách, với hoàn cảnh nhân vật (0,25 điểm).
- Ngôn ngữ giản dị gần gũi với người nông dân Việt Nam; giọng điệu đoạn văn hài hước, hóm hỉnh (0,25 điểm).
3. So sánh điểm giống và khác nhau giữa hai đoạn văn (1,5 điểm) :
a. Điểm giống (0,75 điểm) :
- Cả hai đoạn văn đều viết về nỗi thống khổ và khẳng định tình thương yêu và khát vọng của những con người bất hạnh. Trong những hoàn cảnh đặc biệt, họ đã biết đến gần nhau, cưu mang, cứu giúp nhau để cùng vượt lên sự nghiệt ngã của số phận.
- Thể hiện tấm lòng yêu thương, niềm tin mãnh liệt của các nhà văn đối với con người, khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của các tác phẩm.
- Tạo được tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
b. Điểm khác nhau (0,75 điểm)  :
- Đoạn trích trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài phản ánh nỗi thống khổ và sức sống tiềm tàng của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn chúa đất, chúa mường còn đoạn trích trong Vợ nhặt của Kim Lân phản ánh nỗi thống khổ và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người nông dân trong nạn đói.
- Sức sống của con người trong đoạn trích của Tô Hoài là sức sống tiềm tàng, có một quá trình vận động, thay đổi khá phức tạp còn sức sống của con người trong đoạn trích của nhà văn Kim Lân là sức sống mang tính bản năng, trỗi dậy mãnh liệt trong một tình huống bất ngờ.
- Tô Hoài thiên về miêu tả nội tâm nhân vật bằng độc thoại nội tâm, Kim Lân mạnh về tạo đối thoại

Tài liệu đính kèm:

  • docTHi_hoc_sinh_gioi_cap_truong.doc