Đề cương ôn thi kiến thức học kì 1 môn Ngữ văn Lớp 12 - Bài: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)

docx 12 trang Người đăng khanhhuyenbt22 Ngày đăng 20/06/2022 Lượt xem 373Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn thi kiến thức học kì 1 môn Ngữ văn Lớp 12 - Bài: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương ôn thi kiến thức học kì 1 môn Ngữ văn Lớp 12 - Bài: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP- Hồ Chí Minh 
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Thể Loại
a.Văn chính luận: 
Thể văn chính luận là lối văn hùng biện, được sáng tác theo tư duy lôgic trí tuệ, thuyết phục ở lí lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, luận cứ hùng hồn, bằng chứng không thể chối cãi được nhằm tuyên truyền, thuyết phục và kêu gọi người đọc, người nghe ủng hộ chính kiến, quan điểm của người viết.
b. Thể loại tuyên ngôn
- Tuyên ngôn là văn kiện của một quốc gia một chính đảng hoặc một nhà tư tưởng nào đó nhằm bày tỏ thái độ, lập trường, cương lĩnh trước các vấn đề trọng đại về chính trị, tư tưởng, nghệ thuật, tôn giáo, dân tộc, học thuật
- Tuyên ngôn Độc Lập là văn kiện của quốc gia nhằm tuyên bố độc lập và bày tỏ thái độ lập trường của toàn thể dân tộc Việt Nam với nền độc lập của dân tộc.
2. Hoàn cảnh sáng tác
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là một áng văn chính luận bất hủ là văn kiện lịch sử vô giá ra đời trong bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt.
- Từ ngày 14 tháng 8 đến ngày 28 tháng 8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Tổng bộ Việt Minh mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám của nhân dân ta đã giành thắng lợi trong cả nước. Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội, tại căn nhà số 48 Hàng Ngang người đã chủ trì một số cuộc họp quan trọng của Thường vụ Trung ương Đảng và viết bản Tuyên ngôn Độc Lập chuẩn bị ra mắt chính phủ lâm thời. Theo Bác thì đây là một trong những áng văn mà Người viết một sai một cách say sưa và hứng thú nhất. Sáng ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để tái hiện lại giờ phút thiêng liêng khi Bác đọc Bản tuyên ngôn tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong bản trường ca “ Theo chân Bác”, Tố Hữu đã viết mấy câu thơ thật chân thực và xúc động:
“ Người đọc tuyên ngônrồi chợt hỏi:
“ Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”
Ôi câu hỏi hơn mọi lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng
Cả muôn triệu một lời đáp: “ Có”
Như Trường sơn say gió Biển Đông
Vâng Bác nói chúng con nghe rõ
Mỗi lời Người mang nặng núi sông”
- Trong khi dân ta hân hoan chào đón đền độc lập thì ở ngoài biên cương xuất hiện những cơn bão tố hòng cuốn đi lá cờ đỏ sao vàng - thành quả của cách mạng. Đây là lúc hoàn cảnh nước ta rất phức tạp, bọn thực dân, đế quốc lấp sau danh nghĩa quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật đang âm mưu xâu xé Việt Nam: phía bắc là quân đội Quốc dân đảng, tay sai của đế quốc Mĩ đã chực sẵn ở biên giới để đổ quân vào Việt Nam, tiến vào từ phía nam là quân đội Anh, phía sau là lính viễn chinh Pháp. Ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định: mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Mĩ và Liên Xô có thể khiến Anh - Mĩ sẽ nhân nhượng để cho Pháp trở lại Đông Dương. 
- Còn thực dân Pháp, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai, chúng đã đưa ra một chiêu bài rất dễ đánh lừa công luận quốc tế: Thực dân Pháp tuyên bố: “ Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật chiếm đóng, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương phải thuộc quyền của Pháp”.
Tiểu kết: Chính trong khoảnh khắc lịch sử trọng đại ấy, Tuyên ngôn Độc lập đã ra đời không chỉ là mệnh lệnh của trái tim, sự thôi thúc bên trong của tác giả mà còn là tiếng nói của lịch sử hào hùng. Ở đó hùng khí của dân tộc đã gặp hùng tâm của người chắp bút, của cảm xúc vô biên trong tâm hồn vị lãnh tụ vĩ đại, nên âm hưởng của bản tuyên ngôn sẽ luôn giữ được vẻ hào sảng của một thời khắc, một giai đoạn một đi không trở lại của dân tộc.
3. Đối tượng và mục đích của bản tuyên ngôn
a. Đối tượng
Hoàn cảnh ra đời đã cho thấy rõ hơn đối tượng và mục đích của bản Tuyên ngôn Độc lập. Đối tượng hướng tới của bản Tuyên ngôn không chỉ là đồng bào cả nước như trong lời mở đầu mà còn là các nước trên thế giới, chủ yếu là phẹ Đồng minh trong đó có Anh - Mĩ, đặc biệt là Pháp.
-Trên quảng trường Ba Đình rực nắng, giữa trời thu Hà Nội xanh cao lồng lộng, giọng của bác xiết bao xúc động khi hướng tới “đồng bào cả nước” vì nhân dân chính là người đã viết lên trang sử dân tộc, những chủ nhân của đất nước. Hai tiếng “đồng bào” giản dị mà rưng rưng niềm cảm động yêu thương, đã lay động tận sâu thẳm trái tim của người dân Việt Nam về cội nguồn con lạc cháu Hồng thiêng liêng. Giây phút thiêng ấy giọng nói của Người ngọt ngào như giọng của mẹ, ấm áp như lời của cha và âm vang như tiếng nói của cha ông của lịch sử vọng về:
“ Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao 
Giọng của Người không phải sấm trên cao
Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ước
Con nghe bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”
-Thay mặt cho nhân dân Việt Nam, Bác còn viết cho nhân dân thế giới, cho công luận quốc tế Chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới 
- Nhưng trước hết và sâu xa hơn Người đã hướng tới các thế lực Đế quốc Anh, Pháp, Mỹ và bè lũ phản động Trung Hoa Quốc dân Đảng đang tung ra trước dư luận thế giới những lý lẽ hùng hồn, những luận điệu xảo trá nhằm hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
b. Mục đích:
Và do đó, mục đích của bản Tuyên ngôn không chỉ là tuyên bố độc lập dân tộc, nội dung bản Tuyên ngôn còn có thể coi là một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bộ luận điệu kẻ cướp của thực dân Pháp. Chính đối tượng và mục đích đã chi phối sâu sắc nội dung tư tưởng, giọng điệu và nghệ thuật lập luận trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập.
4. Bố cục 
Tuyên ngôn độc lập được viết theo thể tuyên ngôn gồm ba phần:
- Phần I ( từ hỡi đồng bào  đến không ai chối cãi được): Nêu nguyên lí chung làm nền tảng lí luận cho bản Tuyên ngôn.
- Phần II ( từ Thế mà  đến chế độ Dân chủ Cộng hòa): đối chiếu nguyên lí chung với tình hình thực tế ở Việt Nam để phơi trần bộ mặt thật của Pháp.
- Phần III ( Từ Bởi thế cho nên đến hết): Lời tuyên bố độc lập.
B. PHÂN TÍCH BẢN TUYÊN NGÔN
1. Phần cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Trước hết, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta trên cơ sở pháp lí. Không giống như Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền độc lập dựa trên yếu tố tâm linh “thiên thư”: “Rành rành định phận tại sách trời” (Nam quốc sơn hà), Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập tự do trên cơ sở những lẽ phải không ai chối cãi được. Đó là những giá trị văn hóa lịch sử về quyền con người, là những nguyên lý phù hợp với công pháp quốc tế, đã được cả thế giới công nhận.
- Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 và bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 179: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc Người ta sinh ra tự do, bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của nước Pháp và nước Mỹ như một mũi tên trúng nhiều đích:
+Trước hết, với tầm nhìn xa trông rộng của một thiên tài quân sự, Hồ Chí Minh thấy kẻ thù cụ thể trước mắt và lâu dài của dân tộc là thực dân Pháp, đằng sau là đế quốc Mỹ. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của tổ tiên người Pháp và người Mỹ giống như một hồi chuông cảnh báo: nếu chúng tiến quân xâm lược Việt Nam thì chính chúng đã phản bội lại tổ tiên, làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo thiêng liêng của những cuộc Cách mạng vĩ đại được cả thế giới ngưỡng vọng. Thật thú vị và thích đáng biết bao với cú đòn “gậy ông đập lưng ông” của Bác. Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng: những câu trích dẫn trên vừa là quả táo đối với chúng ta,vừa là quả lựu đạn với kẻ thù khiến cho chúng khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào.
+Ý nghĩa sâu sắc và danh thiếp trên lại ẩn với cách nói khéo léo, tỏ ra tôn trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp và người Mỹ. Từ đó, Hồ Chí Minh đã tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận tiến bộ tại hai nước Pháp và Mỹ. Đúng là lạt mềm buộc chặt.
+ Bằng việc trích dẫn hai văn kiện lập quốc của người Mỹ và người Pháp, hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, bản Tuyên ngôn Độc lập đã nâng cao tầm vóc văn hóa của người Việt Nam, sánh ngang một dân tộc với bề dày truyền thống “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” với ánh sáng của văn minh thế giới. Khi Hồ Chí Minh đặt ngang hàng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những nước trên thế giới, ta lắng nghe trong lời Bác âm hưởng ngân vang tự hào trong tiếng nói của cha ông:
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Hơn thế nữa, tác giả còn kín đáo thể hiện niềm tự hào dân tộc khi cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của cả hai cuộc cách mạng kia. Cuộc cách mạng tháng Tám của ta đã cùng lúc giải quyết nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mỹ năm 1776 và Pháp năm 1791. Đó là nhiệm vụ dân tộc khi dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân để gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập - đây cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mỹ ( đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thống trị của thực dân Anh). Cuộc cách mạng Tháng Tám cũng giải quyết nhiệm vụ dân chủ dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa - đây cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng dân quyền nhân quyền của nước Pháp năm 1789.
-Nét sáng tạo mới mẻ trong ngòi bút chính luận của Hồ Chí Minh không chỉ là ở việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn mà còn mở rộng phát triển lên một tầm cao mới: Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ suy rộng ra cô ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do. Từ quyền con người, Bác đã vận dụng thiết thực sáng tạo và quyền độc lập dân tộc. Câu nói ấy không chỉ thức tỉnh trí tuệ Việt Nam mà trí tuệ nhân loại của từng tỉnh. Hay nói như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: phát súng lệnh mở đầu cho Bão Táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ 19. Ý kiến suy rộng ra ấy là một đóng góp vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nổi tiếng thế giới đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy là tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình”. Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào những năm 60-70 của thế kỷ 20.
=>Như thế là Bác đã dùng những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong những bản tuyên ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang cho truyền thống, tư tưởng văn hóa của những dân tộc đó. Cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết.
=>Tiểu kết:
Đoạn văn ngắn nhưng mở ra bao liên tưởng phong phú, nén chặt trong từng câu từng chữ. Đoạn văn ngắn nhưng kết đọng và tỏa sáng tài năng trí tuệ sắc sảo và tư tưởng lớn lao của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã vượt thời gian, không gian hiện tại, bắt gặp và lắng đọng hồn thiêng sông núi, vượt phạm vi trong nước nhỏ hẹp vươn lên tầm cao nhân loại. Đúng là phải đọc Tuyên ngôn Độc lập giữa hai dòng chữ thì mới thấm thía hết ý vị sâu xa. Những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, hàm súc, thuyết phục thể hiện qua một ngòi bút già dặn, cao tay của một nhà tư tưởng nhà văn hóa lớn có tầm vóc nhân loại.
2. Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn
a. Về phía thực dân Pháp
- Hệ thống lập luận của bản tuyên ngôn không chỉ chặt chẽ khi đặt cơ sở pháp lý mà còn rất toàn diện khi đưa ra những cơ sở thực tế, những “bằng chứng sống”của hiện thực lịch sử. Những lý lẽ của sự thật có sức tác động trực tiếp, lay động đến tâm hồn người nghe, người đọc. Kẻ thù trước mắt đang lăm le quay trở lại xâm lược nước ta với những chiêu bài khai hóa, bảo hộ, nhân danh Đồng minh thì Hồ Chí Minh đã đánh đòn phủ đầu trực diện đầu tiên là tố cáo tội ác của chúng, lập lên bản cáo trạng đanh thép, đập tan những luận điệu xảo trá để phủ nhận hoàn toàn quyền của chúng ở Việt Nam. Với một bút lực dồi dào, với những lí lẽ sắc sảo như lưỡi dao sắc bén, Hồ Chí Minh đã tạo nên một hệ thống luận cứ chặt chẽ, tiêu biểu, toàn diện bóc trần danh nghĩa khai hóa, bảo hộ mà thực dân Pháp đã rêu rao.
- Bắt đầu bằng hai tiếng thế mà mạch văn nay chuyển tự nhiên tác động tới nhận thức mỗi người từ những nguyên lý cao đẹp vừa nêu trong hai bản tuyên ngôn đến thực tế nước Việt Nam. Lập luận của Bác nhấn mạnh đến sự đối lập giữa lời nói và việc làm của thực dân pháp để chỉ ra bản chất xấu xa tàn bạo của chúng. Mọi phương tiện của đời sống đều in dấu ấn tội ác của thực dân Pháp.
* Vạch trần luận điệu về công lao khai hóa của Pháp đối với Đông Dương
Để vạch trần luận điệu về công lao khai hóa của Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ “những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: chính trị và kinh tế thông qua những dẫn chứn chọn lọc, đầy sức thuyết phục:
+Về chính trị, Hồ Chí Minh đã tố cáo việc thực dân Pháp thi hành những luật pháp dã man đối với đồng bào ta. Chúng thực hiện các chính sách chia để trị, chính sách đàn áp, chính sách ngu dân, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, đúng như nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: 
Giặc cướp hết non cao biển rộng
Cướp cả tên nòi giống tổ tiên lưỡi
Gươm cắt đất ngăn miền
Non sông một khúc ruột liền chia ba
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
​Hồ Chí Minh không chỉ liệt kê những tội ác chồng chất của thực dân Pháp mà còn lay động trái tim, khối óc của người đọc, người nghe bằng cách viết giàu hình ảnh và cảm xúc.
• Bác so sánh: chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học nhằm nhấn mạnh mục đích đàn áp của chúng hơn là việc thực hiện chính sách văn khai hóa văn minh.
• Bác không viết chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa dã man mà sử dụng hình ảnh ẩn dụ chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu hành động đàn áp được thay bằng hình tượng “tắm”, mức độ dã man được hình tượng hóa bằng “bể máu”. Cách viết hình tượng này vừa khắc họa bộ mặt quỷ dữ khát máu của bọn thực dân xâm lược vừa nói lên hình ảnh thê thảm của người dân nô lệ mất nước đang quằn quại trong bể đau thương.
• Bác còn sử dụng hình ảnh hoán dụ chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta nhằm nhấn mạnh tới bản chất dã man tàn bạo giết người không ghê tay của thực dân Pháp.
​+ Về kinh tế: Hồ Chí Minh đã phơi bày những chính sách tàn nhẫn của thực dân Pháp: chính sách cướp phá, bóc lột, cấm vận, thuế khóa nặng nềtrên tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, tiền tệ, xuất nhập cảng, kinh doanh
​Điều đặc biệt là khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp, Bác còn khéo léo lay thức tinh thần dân tộc khi khẳng định những chính sách tàn bạo của chúng gây hậu quả tới tất cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam lúc đó: dân cày, dân buôn, công nhân, tư sản. Chúng đã đẩy toàn dân ta vào tình cảnh khốn cùng:
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nghèo đất phương trời mà đi
(Tố Hữu)
​Với bút pháp hiện thực sắc sảo, bản tuyên ngôn đã vẽ lên một thời đại đau thương của dân tộc với gam màu xám lạnh trên nền máu và nước mắt: kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị tới Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Như vậy nhân danh khai hóa nhưng thực chất thực dân Pháp đã khai tử cho cả một dân tộc, làm thui chột cả trí lực và sức lực của ta để dễ bề cai trị.​​
​Ta lắng nghe xong lời Bác âm vang tiếng nói cha ông, tiếng nói tố cáo tội ác trời không dung, đất không tha của kẻ thù khi chúng:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
( Nguyễn Trãi)
​Hồ Chí Minh đã sử dụng dày đặc cá tính từ làm nổi bật tình cảnh thê thảm của nhân dân ta dưới sự cai trị của thực dân Pháp: suy nhược, nghèo nàn, thiếu thốn, bần cùng, xơ xác, tiêu điều... Ngôn ngữ của Bác ngắn gọn mà vô cùng chính xác, biểu cảm. Chỉ cần bổ sung thêm một hai từ trong diễn đạt, Bác đã làm nổi bật sự dã man tàn bạo của bọn Pháp “bóc lột đến tận xương tủy, cướp không ruộng đất, trăm thứ thuế vô lí”.Từng câu, từng chữ còn nhức nhối đến tận tâm can người đọc. Những câu văn ngắn như dồn nén biết bao căm hận, ẩn đằng sau đó là sôi trào máu và nước mắt thấm đầu ngọn bút. 14 câu văn mở đầu bằng từ “chúng” với những hành động tàn bạo thẳng tay chém giết, tắm những cuộc khởi nghĩa của ta, bóc lột đến tận xương tủy dội búa tạ đến đầu nhân dân ta, nước nhà của ta, nói giống ta, dân ta, công nhân ta. Giọng văn đa thanh khi hùng hồn canh thép như lời tuyên án, lúc uất ức xót xa, gây xúc động cho bao triệu trái tim Việt Nam và nhân dân thế giới. Đằng sau những trang văn day dứt ấy là tâm hồn nhân đạo cao cả của Hồ Chí Minh
Người đã đói khỏi cơn đói ngày xưa
Người đã chết hai triệu lẫn năm bốn lăm khủng khiếp
(Nhà thơ Cu Ba: A. Rô – đơ – ri – ghết)
​Có thể nói, chính cảm xúc mãnh liệt hòa quện với lí trí sắc sảo đã tạo nê sức mạnh chiến đấu trong văn phong chính luận Hồ Chí Minh.
​* Phơi bày luận điệu xảo trá về “công lao bảo hộ Đông Dương” của Pháp
Để phơi bày luận điệu xảo trá về “công lao bảo hộ Đông Dương” của Pháp, bản tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng những không bảo hộ mà trong năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật:
• Mùa thu năm 1940 phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương Để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật
• Trước ngày ngày mùng 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới quân đội Pháp, bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy hoặc là đầu hàng.
​Những dẫn chứng đưa ra có ngày tháng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Giọng văn vừa hùng hồn vừa bi thiết lại được diễn đạt bằng hình ảnh nên có sức truyền cảm to lớn. Câu văn giàu hình ảnh đầy sức tố cáo, các chữ quỳ gối, rước, bỏ chạy, đầu hàng đã vẽ lên bộ mặt hèn nhát và tư thế nô lệ của thực dân Pháp trước phát xít Nhật. Nêu lên sự thật này trước công luận quốc tế tác giả một lần nữa phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam khi lợi dụng danh nghĩa Đồng Minh.
* Bác bỏ danh nghĩa “Đồng minh” của thực dân Pháp
Cuối cùng Hồ Chí Minh bác bỏ lời tuyên bố là: Đông Dương là thuộc địa của chúng với tư cách là thành viên của Đồng minh, bản tuyên ngôn chỉ rõ: trước ngày mùng 9 tháng 3 biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người khác liên minh để chống Nhật, bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Pháp không còn tư cách gì là Đồng minh để trở lại đây nữa vì chúng đã không không liên minh với Việt Minh chống phát xít Nhật,.
Thực dân Pháp khẳng định Việt Nam là thuộc địa của chúng bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng đồng minh, Pháp đương nhiên có quyền trở lại Đông Dương thay thế quân đội Nhật thì bản Tuyên ngôn chỉ rõ một cách đanh thép: Sự thật là từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Những sự thật lịch sử hiển nhiên được thể hiện trong cấu trúc điệp cú pháp làm tăng thêm sự thuyết phục hùng hồn cho lí lẽ.
Dân ta đã giành độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của chính mình, giành độc lập khi Đồng minh chưa bén mảng đến đây. Luận điểm này đứng về ý nghĩa pháp lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng hồn tiếp theo của bản tuyên ngôn: “Bởi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
b.Về phía nhân dân Việt Nam
​Để khẳng định trước công luận quốc tế nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập đã rất độc đáo khi tạo ra sự đối lập giữa thực dân Pháp và dân tộc ta. Nếu như khi Nhật đến, Pháp bộc lộ bản chất đê hèn quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta nước Nhật; khi Nhật đảo chính Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng; nếu như Pháp là kẻ tàn bạo, vô nhân đạo thẳng tay khủng bố Việt Minh, đến khi thua chạy chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đăng từ chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta lại vùng lên quật khởi , thậm chí còn nhân đạo với chính kẻ thù.
​* Hồ Chí Minh đã khẳng định nhân dân Việt Nam có đầy đủ tư cách được hưởng độc lập tự do:
​- Dân tộc ta, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng đổ xương máu dành độc lập tự do “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Cấu trúc điệp đã tạo dựng lên khí phách bản lĩnh của một dân tộc qua trường kỳ lịch sử và trước các thế lực hắc ám.
​+ Trong khi thực dân Pháp phản bội Đồng minh thì nhân dân Việt Nam chứ không phải ai khác đã đứng lên chống phát xít Nhật chiến đấu với tư cách Đồng minh trước ngày mùng 9 tháng 3 biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người khác liên minh để chống Nhật; khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
​- Trong khi Pháp thể hiện bản chất tàn bạo vô nhân đạo thì Việt Nam lại là một dân tộc luôn giữ được thái độ khoan hồng và nhân đạo: sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người nhiều người khác chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người khác ra khỏi nhà ra Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Khẳng định truyền thống đạo lý nhân nghĩa, Tuyên ngôn Độc lập đã phát huy tư tưởng nhân văn được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
(Nguyễn Trãi)
​* Cuối cùng, Hồ Chí Minh khẳng định: một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần bác ái như thế “dân tộc đó phải được tự do”: “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
​* Không chỉ đòi quyền là bản tuyên ngôn đã chỉ ra một thực tế là Việt Nam đã giành được độc lập: nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.
3. Phần tuyên bố
​a. Tuyên bố với thực dân Pháp
​Sau khi tạo dựng những cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, Hồ Chí Minh nói lời tuyên bố độc lập. Phần kết thúc bản Tuyên ngôn là lời khẳng định chủ quyền độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam trên cơ sở công pháp quốc tế và truyền thống yêu nước bất khuất của nhân dân ta. Đối tượng đầu tiên và cũng là đối tượng số 1 của lời tuyên bố chính là thực dân Pháp - kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân ta. Trước hết, tác giả nhấn mạnh tư cách chủ nhân hợp pháp của nước Việt Nam độc lập chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới đại biểu cho toàn dân Việt Nam. Lời tuyên bố này được viết bằng giọng dứt khoát và đanh thép tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những Hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tác giả đã sử dụng cấu trúc tăng tiến thoát li hẳn xóa bỏ hết xóa bỏ tất cả kết hợp với giọng văn đanh thép để phủ nhận triệt để quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. Kết thúc lời tuyên bố vơi thực dân Pháp là lời cảnh cáo nhắc nhở chúng đừng tái chiếm Việt Nam lần nữa: Toàn thể dân tộc Việt Nam trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp. Nghe âm vang trong lời Bác tiếng nói của cha ông:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
(Lí Thường Kiệt)
b.Tuyên bố với phe Đồng minh
​Khi tuyên bố với phe Đồng minh, Hồ Chí Minh lại dùng cách nói mềm mỏng lịch sự mà ràng buộc chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê – hê – răng và cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận nền độc lập của dân Việt Nam. Nếu công ước công nhân quốc tế đã thừa nhận quyền dân tộc tự quyết tại hai hội nghị Tê – hê - răng và Cựu Kim Sơn thì nhất định phải thừa nhận quyền độc lập của Việt Nam . Đây là yêu cầu nhân danh lễ phải, là tiếng nói đòi quyền sống đời quyền tự do của dân tộc có sức mạnh chính nghĩa. Lí lẽ thiên về tình cảm thuyết phục chúng tôi tin rằng với những lý lẽ vừa có lý, vừa có tình, giọng văn nhẹ nhàng thể hiện thái độ tôn trọng nhưng không kém phần kiên quyết. 
c.Tuyên bố với thế giới
​Tác phẩm kết thúc bằng lời tuyên bố chung với nhân dân thế giới, ngắn gọn nhưng thể hiện được tất cả linh hồn của bản tuyên ngôn:
​-Tuyên bố tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam độc lập và quyết tâm của nhân dân Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả để giữ vững nền độc lập. Đoạn văn có sức nặng của những cơ sở lý luận và thực tiễn mà tác giả đã dày công tạo dựng trong các phần trên: “Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập “, bởi lẽ đó là quyền của mọi dân tộc trên thế giới, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh bền bỉ phi thường của nhân dân Việt Nam.
​- Cuối cùng, thay mặt hơn 20 triệu đồng bào, Hồ Chí Minh đã cất lên lời thề thiêng liêng sắt đá: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ sóng đôi theo lối tăng tiến tạo ra giọng văn nhịp nhàng, đanh thép. Qua đó, thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà chiến sĩ vĩ đại Hồ Chí Minh và truyền thống của một dân tộc bất khuất, yêu tự do chưa bao giờ cúi đầu trước kẻ thù. Đó cũng là sự cảm của một nhà chính trị thiên tài về con đường đầy gian khổ khi sinh mà nhân dân đất nước ta sẽ phải trải qua. Nêu cao nguyện vọng độc lập dân tộc, khẳng định truyền thống yêu nước bất khuất, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã tiếp nối và phát huy chủ nghĩa yêu nước và anh hùng trong các áng thiên cổ hùng văn. Từ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt đến Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đến Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là những chặng đường khác nhau của một chân lý “không bao giờ quý hơn độc lập tự do”. Phần kết của bản tuyên ngôn là lời hiệu triệu sức mạnh đoàn kết, thể hiện khí phách và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc và kế thừa suốt 4000 năm lịch sử, khép lại một trang sử hào hùng và mở ra một giai đoạn mới một cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ độc lập tự do.
👉KẾT LUẬN:
Tuyên ngôn Độc lập kết tinh tầm vóc tư tưởng, tình cảm, trí tuệ của một nhà chính trị, nhà ái quốc vĩ đại và tài năng của một cây bút chính luận kiệt xuất. Về tư tưởng, tác phẩm có đóng góp đáng kể trong phong trào đấu tranh độc lập của các dân tộc bị áp bức đô hộ. Người đã tổng kết được một cách giản dị mà xúc tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành độc lập dân tộc, dân quyền, nhân quyền của dân tộc ta và nhân loại.
“ Trời bỗng xanh nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt nam dân chủ cộng hòa”
(Theo chân Bác – Hồ Chí Minh)
Về nghệ thuật, Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ đanh thép, giọng thanh truyền cảm linh hoạt, ngôn ngữ phong phú, gợi cảm. Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc ta trên mọi nẻo đường chiến đấu và chiến thắng.

Tài liệu đính kèm:

  • docxon_tap_kien_thuc_hoc_ki_1_mon_ngu_van_lop_12_bai_tuyen_ngon.docx