Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 3

doc 8 trang Người đăng duthien27 Lượt xem 4145Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 3
PHÒNG GD& ĐT TAM NÔNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC AN LONG A
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2017-2018
 Tên SKKN: Một số giải pháp hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 3 
 Tác giả: Bùi Phú Nghĩa. Chức vụ: Giáo viên chủ nhiệm
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Thực trạng và nguyên nhân 
1. Thực trạng 
 a/ Mặt mạnh:
 - Được Phòng giáo dục huyện, nhà trường quan tâm sát sao, mở các lớp chuyên đề hướng dẫn giáo viên đánh giá năng lực, phẩm chất của học sinh theo thông tư 30 và thông tư 22 cùng văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT. Tập huấn các phương pháp dạy học tích cực, kĩ thuật dạy học tích cực...
 - Bản thân có nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, với lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề, tận tụy với học sinh nên có nhiều kinh nghiệm trong việc giáo dục phẩm chất và năng lực cho học sinh.
 - Đa số học sinh có năng lực và phẩm chất tốt, có kĩ năng sống tốt nhờ có hứng thú trong học tập, rèn luyện, biết vâng lời thầy cô và ông bà cha mẹ. Toàn trường có 100% học sinh xếp loại Đạt trở lên. Tuy nhiên số học sinh đạt loại Tốt chưa cao.
 - Lớp có một số phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học của học sinh; một số phụ huynh có trình độ, biết cách giáo dục con cái.
b/ Hạn chế:
- Nhiều học sinh thiếu mạnh dạn và rụt rè, e ngại chưa dám bộc lộ ý kiến của mình. Một số học sinh chưa ngoan, chưa lễ phép với thầy cô giáo và người lớn tuổi, hay nói tục, chửi thề, thiếu đoàn kết; chưa có những kỹ năng sống cần thiết như kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng phòng tránh tai nạn thương tích,...
- Một số học sinh nghiện game, say mê với điện thoại dẫn đến việc các em có thái độ tiêu cực trong học tập, hay mâu thuẩn với bạn bè. Các em có cách học, phương pháp học tập chưa khoa học.
 - Khi thực hiện Thông tư 22, một số giáo viên chưa thay đổi kịp thói quen từ đánh giá bằng điểm sang đánh giá bằng nhận xét, còn nhiều lúng túng, chưa chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu về năng lực, phẩm chất của từng em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Trong giảng dạy, một số giáo viên chỉ quan tâm đến việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng các môn học, chưa quan tâm và tạo cơ hội nhiều cho học sinh được trình bày ý kiến; còn làm thay, làm hộ học sinh nhiều việc. 
 - Phụ huynh học sinh chỉ chú trọng đến các kiến thức, kĩ năng các môn học, chưa chú trọng việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho con. Mặt khác, do cưng chiều con quá mức và bận rộn trong cuộc sống nên làm thay con mọi việc dẫn đến nhiều em chưa đạt các phẩm chất, năng lực theo lứa tuổi. 
 2. Nguyên nhân:
 - Học sinh thiếu tự tin, rẹt rè, ngại phát biểu ý kiến của mình một phần là do giáo viên chưa thân thiện, hay trách phạt, chưa tạo được mối quan hệ gần gũi, công bằng, khách quan, yêu thương học sinh. Giáo viên chưa tạo được không khí lớp học, nhẹ nhàng, thoải mái, thân thiện, chưa tạo điều kiện cho học sinh được trao đổi, chia sẻ, chưa phát huy được tính tích cực chủ động cho học sinh. 
 - Một số giáo viên chưa sử dụng tốt các phương pháp dạy học mới, lấy học sinh làm trung tâm, chưa áp dụng tốt các kĩ thuật dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy.
 - Do một số giáo viên chưa chưa tham khảo, nghiên cứu các phương pháp hay trong việc giáo dục hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh. Một số giáo viên chưa chú trọng xây dựng nội quy lớp học và tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần, chưa chú trong giáo dục kĩ năng sống nên chưa điều chỉnh kịp thời các hành vi chưa đạt về năng lực, phẩm chất của học sinh.
 - Do sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng xã hội nên nhiều em dễ sa ngã, dễ học theo cái xấu. Sự nuông chiều, thiếu kiểm soát của phụ huynh dẫn đến việc học sinh nghiện game, nghiện điện thoại. Do thời gian bận rộn, một số phụ huynh thường hay làm thay con cho con kịp giờ học, cha mẹ kịp giờ làm, suốt ngày không có thời gian chăm sóc, giáo dục con,...
 - Các buổi sinh hoạt ngoại khóa, các buổi trải nghiệm còn ít; thiếu các sân chơi lành mạnh chưa đáp ứng được nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho các em.
 * Kết quả khảo sát đầu năm 2017-2018 của 29 học sinh lớp 3/4 như sau:
TT
Các năng lực
Xếp loại Tốt
Xếp loại Đạt
Xếp loại Cần cố gắng
Số HS 
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
1
Tự phục vụ, tự quản
15
51,72
14
48,27
0
2
Hợp tác
14
48,27
15
51,72
0
3
Tự học và giải quyết vấn đề
13
44,82
16
55,17
0
 TT
Các phẩm chất
Xếp loại Tốt
Xếp loại Đạt
Xếp loại Cần cố gắng
Số HS 
Tỉ lệ %
Số HS 
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
1
Chăm học, chăm làm
15
51,72%
14
48,27%
0
2
Tự tin, trách nhiệm
13
44,82%
16
55,17%
0
3
Trung thực, kỷ luật
14
48,27%
15
51,72%
0
4
Đoàn kết, yêu thương
16
55,17%
13
44,82%
0
II. Biện pháp/Giải pháp đã thực hiện
Từ những thực trạng và nguyên nhân trên, tôi đã nghiên cứu tìm ra giải pháp để hình thành và phát triển các năng lực, phẩm chất của học sinh, cụ thể như sau:
Giải pháp 1: Chú trọng viêc chọn Ban cán sự lớp, xây dựng nội quy lớp học, tiết sinh hoạt tập thể: 
 Vào đầu năm học, tôi chú ý nhiều đến khâu ổn định nề nếp lớp bằng cách phát huy tính dân chủ trong lớp học qua một số việc như:
 - Bầu Ban cán sự lớp: Để các em được quyền tự bình bầu ban cán sự lớp theo khả năng suy nghĩ và nhìn nhận bạn theo khả năng của từng em học sinh. Dựa vào kết quả bình bầu giáo viên kết hợp với thông tin qua tìm hiểu từ năm học trước mà có quyết định Ban cán sự lớp. Sau đó, giáo viên phải sinh hoạt để từng cán sự lớp hiểu nhiệm vụ và công việc của mình. Từ đó, các em sẽ tự quản lớp tốt hơn, đạt hiệu quả hơn. Ngoài ra, giáo viên còn phải thiết kế sổ theo dõi giúp các em vì các em còn nhỏ phải tập cho các em cách làm việc có khoa học từ việc kiểm tra theo dõi đến ghi chép để làm cơ sở tổng kết chính xác, khách quan đó cũng là việc làm rất cần thiết để hỗ trợ cho giáo viên. Qua những minh chứng được ghi chép, sau đó tổng kết rèn cho từng em trong lớp biết những khiếm khuyết của mình mắc phải tự nêu cách khắc phục và sửa chữa.
 - Xây dựng nội quy lớp học: Để xây dựng được nội quy lớp học phát huy tính dân chủ, phát huy hứng thú thực hiện, tôi tiến hành như sau: Tổ chức lấy ý kiến của học sinh về những nội quy cần có theo quy định của Ban giám hiệu (những điều phải thực hiện; những điều nên làm, những điều không nên làm); chia sẻ ý kiến của các nhóm, thống nhất ý tưởng; thống nhất nội quy lớp; cam kết thực hiện; phân công giám sát thực hiện và hình thức khen thưởng; thống nhất cách thay đổi nội quy theo tháng. 
Nhờ có nội quy lớp, học sinh tích cực học tập, rèn luyện đạo đức lối sống, vệ sinh,... Em nào cũng hăng hái trong giờ học, hăng say phát biểu để nhận được nhận lời khen, lời nhận xét tốt từ giáo viên. Qua đó, giáo viên hình thành và phát triển tốt các phẩm chất, năng lực cho học sinh.
 - Sinh hoạt tập thể: Sau một tuần giảng dạy, học tập mệt mõi, tiết sinh hoạt tập thể là cơ hội khơi gợi khả năng, giúp các em bộc lộ năng lực trước thầy cô, bạn bè. Làm cho các em biết kính mến thầy cô và đoàn kết gắn bó, yêu thương giúp đỡ nhau. Đồng thời sửa chữa khắc phục những tồn tại của bản thân, phát huy những thành tích đạt được. Để tiết sinh hoạt có chất lượng, tôi luôn chuẩn bị rất chu đáo nội dung, hình thức để hình thành và phát huy các năng lực, phẩm chất cho các em một cách nhẹ nhàng, hiệu quả. 
 Ví dụ: Để giải quyết những mâu thuẩn giữa học sinh với nhau, tôi cho hai em tự tìm và nêu ra cách giải quyết hài hòa; Nếu chưa được, tôi lấy ý kiến của học sinh cả lớp về cách giải quyết tình huống xảy ra mâu thuẩn của hai bạn. cuối cùng, giáo viên đưa ra kết luận về cách giải quyết mâu thuẩn để giáo dục học sinh. Với cách làm này hầu như tình huống nào tôi cũng giải quyết tốt, tạo được sự đoàn kết cao trong lớp.
 Trong nội dung sinh soạt chủ điểm, tôi thường tổ chức cho các em thi nói lời chúc mừng như: chúc mừng sinh nhật, chúc mừng năm mới, chúc mừng mẹ và cô ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, chúc mừng ngày Nhà gáo Việt Nam 20/11,...nhằm giáo dục truyền thống, vun đắp tình cảm và rèn kĩ năng nói cho học sinh.
Giải pháp 2: Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, các kĩ thuật dạy học tích cực:
 Trong quá trình giảng dạy, tôi cố gắng vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, các kĩ thuật dạy học tích cực như: Thảo luận nhóm, trò chơi, khăn trải bàn, Sơ đồ tư duy,...để phát huy các năng lực, phẩm chất cho học sinh.
 Việc áp dụng phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm giúp học sinh cảm thấy được tôn trọng, nhờ đó học sinh tham gia tích cực hơn, có động cơ tích cực hơn, có sự tự tin hơn trong quá trình học tập. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã phát huy được vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh, đồng thời đề cao hơn vai trò chủ đạo của người thầy. Ở đây, giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể đóng vai trò là người gợi mở, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, trọng tài trong các hoạt động độc lập của học sinh, đánh thức năng lực tiềm tàng trong mỗi em, chuẩn bị cho học sinh tham gia tích cực vào phát triển cộng đồng. 
Trong giảng dạy, tôi đặt biệc chú ý những em có tính rụt rè, nhút nhát ngại phát biểu bằng cách thường xuyên tạo điều kiện để các em trình bày những ý kiến từ đơn giản đến phức tạp, tìm cách động viên, gợi mở và có thái độ hết sức gần gũi; sử dụng phương pháp trò chơi với nhiều hình ảnh để kích thích hứng thú tham gia của các em; định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
	Sau khi được tập huấn các kĩ thuật dạy học tích cực, tôi đi sâu nghiên cứu, áp dụng triệt để vào quá trình giảng dạy các môn học. Việc làm này góp phần tích cực giáo dục các em rèn tính hợp tác, kĩ năng chia sẻ, lắng nghe, óc tư duy, kĩ năng ra quyết định. Các kĩ thuật tôi thường xuyên áp dụng là: khăn trải bàn, sơ đồ tư duy, trình bày một phút,... 
 Giải pháp 3: Chủ động phối hợp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp và chú trọng dạy kĩ năng sống.
 Hoạt động ngoài giờ lên lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống và hình thành nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đào tạo ra những con người có chí hướng, có đạo đức, có định hướng tương lai, có khả năng sáng tạo, biết vận dụng một cách tích cực những kiến thức đã học vào thực tế, đồng thời biết chia sẻ và quan tâm tới mọi người xung quanh.
	Khi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên cần lựa chọn những nội dung phù hợp, gần gũi để học sinh cả lớp được tham gia; khuyến khích, động viên và tạo cơ hội để các em được tham gia bàn bạc từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện và rút kinh nghiệm cho bản thân sau mỗi hoạt động.
 Trong năm học này, tôi đã chủ động đề xuất với ban giám hiệu trường cho học sinh khối 3 tham gia hoạt động về nguồn (trước đây chỉ tổ chức cho học sinh khối 4,5); gợi ý để tổng phụ trách Đội tham mưu cùng Ban giám hiệu tổ chức các hoạt động như: Đêm hội trăng rằm, trò chơi dân gian chào mừng các ngày lễ lớn, kể chuyện, múa hát dưới cờ...
 Bản thân chủ động tổ chức các hoạt động như: đố vui học tập; thi viết chữ đẹp; thi kể chuyện về Bác Hồ; thi hát dân ca, hò vè; quyên góp ủng hộ, đi thăm bạn trong lớp bị tai nạn giao thông; dạy các bài hát dùng trong sinh hoạt tập thể ngoài chương trình môn âm nhạc; trang trí lớp học, chăm sóc cây cối trong lớp, chăm sóc cây do trường phân công, thi làm việc giúp đỡ cha mẹ,...Với kinh nghiêm hơn mười năm làm tổng phụ trách Đội trước đây, tôi tổ chức rất nhiều trò chơi cho các em sau các tiết học căng thẳng, tiết sinh hoạt tập thể, tạo cho các em được tâm thế thoải mái, vui tươi, hứng thú trong học tập, giúp các em thật sự nghĩ rằng "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui"
 Các bài tập rèn kĩ năng sống cho học sinh chú trọng rèn luyện các kĩ năng như: tự nhận thức về bản thân, tự lập, an toàn giao thông, giao tiếp hiệu quả, quản, giải quyết mâu thuẩn. Đây là những nội dung có liên quan trực tiếp đến việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Vì vậy, khi giảng dạy, tôi nghiên cứu rất kĩ nội dung bài, tự soạn giáo án cho từng bài và tự nghiên cứu tìm ra lời giải cho các bài tập (vì không có sách giải bài tập) nhằm mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất.
Giải pháp 4: Động viên, khen thưởng kịp thời:
 Học sinh tiểu học rất thích khen. Hàng ngày, hàng tuần, tôi quan sát, theo dõi từng biểu hiện của học sinh. Nếu các em học có tiến bộ, làm bài tập tốt hoặc có những biểu hiện tốt về năng lực, phẩm chất dù là nhỏ nhất, tôi lập tức khen ngợi các em. Tùy vào mức độ, tôi đưa ra những lời khen và hình thức khen thưởng khác nhau. Khi được khen, các em rất vui và hãnh diện. Vì thế các em rất tích cực thi đua học tập và tham gia các hoạt động. 
 Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học, tôi trao đổi với phụ huynh của lớp cùng phối hợp tạo một khoản quỹ khen thưởng nhỏ để khen thưởng, động viên các em nhằm tạo động cơ tốt trong học tập cho các em. Phần thưởng có thể là một quyển tập, một cây thước kẻ, bút chì, viên kẹo,...Đề xuất của tôi được phụ huynh lớp nhất trí cao và duy trì tốt. Đây là hình thức động viên rất có hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, có ý thức rèn luyện đạo đức tác phong tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, có trách nhiệm hơn với tập thể,... góp phần phát triển năng lực, phẩm chất cho các em một cách tích cực.
 Đối với các em mắc phải lỗi lầm hoặc học hành chưa tiến bộ, tôi thường dùng những lời nói nhẹ nhàng nhằm khuyến khích các em là chính và chú trọng về mặt thành công của học sinh. Đặc biệt là những học sinh có khó khăn trong học tập, tôi quan tâm nhiều hơn bằng cách giúp đỡ, lắng nghe các em nói, động viên, khuyến khích các em, trân trọng những cố gắng, dù vẫn còn nhỏ. Lời khen đúng nó thật diệu kì, nhưng tôi không lạm dụng lời khen quá mức sẽ có tác dụng ngược lại. 
Giải pháp 5: Làm tốt công tác tuyên truyền và phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh trong quá trình giảng dạy, giáo dục:
Việc tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh không chỉ giúp giáo viên có thêm nguồn thông tin bổ ích khi đánh giá các năng lực, phẩm chất mà còn gắn kết trách nhiệm giữa nhà trường và gia đình.
Vào buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi liên hệ lấy số điện thoại, địa chỉ cụ thể của từng học sinh, pho tô phát mỗi phụ huynh về nội dung đánh giá các môn học, đánh giá năng lực, phẩm chất, xét khen thưởng theo thông tư 22. Trong đó tôi đặc biệt nhấn mạnh năng lực tự phục vụ, phẩm chất chăm học, chăm làm để phụ huynh định hướng trong việc giáo dục con cái ở nhà. Ngoài ra, tôi còn chú trọng nêu lên mục đích ý nghĩa của các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các phong trào do nhà trường phát động đều nhằm mục đích giáo dục nhân cách, giáo dục các kĩ năng sống cân thiết cho học sinh, kêu gọi sự tham gia nhiệt tình của phụ huynh học sinh. 
Trong quá trình giảng dạy, tôi quan sát, tìm hiểu, thống kê các năng lực, phẩm chất của những học sinh chưa đạt. Sau đó tôi chủ động liên hệ với phẹ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau để bàn bạc thống nhất cách dạy các em sao cho đạt hiệu quả.
 Khi bàn bạc các biện pháp giáo dục học sinh ở nhà, tôi cũng mạnh dạn đưa ra các quan điểm các phương pháp giáo dục như: dạy các em các chuẩn mực văn hóa truyền thống tốt đẹp của người xưa, cung cấp cho các em những mẫu hành vi văn hóa, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh. Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, ông bà cha mẹ phải thường xuyên thực hiện các hành vi mẫu mực trước con cái; cần tạo điều kiện tốt nhất để các em được học tập, vui chơi giải trí. Ở nhà, cha mẹ cần phải quản lí thời gian biểu của con, tránh tuyệt đối việc học sinh nghiện game, hạn chế tối đa việc cho học sinh tiếp xúc với điện thoại di dộng thông minh để phòng tránh những mối nguy hại về thể chất và tinh thần của các em; cần tập cho con làm các công việc phù hợp với lứa tuổi, không nuông chiều, không làm thay cho các em. Cha mẹ phải luôn tìm cách để các em nói lên quan điểm cá nhân, kiên trì động viên, khuyến khích khi các em làm việc, cùng tận hưởng niềm vui khi các em hoàn thành công việc. Đây là những cách hình thành và phát triển các năng lực phẩm chất như: tự phục vụ, tự quản; chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; đoàn kết, yêu thương; các kĩ năng sống cần thiết cho các em.
 III. Hiệu quả và khả năng áp dụng
1. Hiệu quả: 
 Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong gần một năm học, tôi đã đạt được một số kết quả quan trọng, cụ thể như sau:
 - Số học sinh xếp loại Tốt về năng lực phẩm chất tăng lên đáng kể. Học sinh ham thích đi học hơn (duy trì sĩ số 100%), có kĩ năng tự phục vụ, tự quản tốt, có kỹ năng hợp tác tốt, biết lắng nghe người khác, biết chia sẻ, tự tin, có mạnh dạn, chấp hành tốt nội quy trường lớp, có khả năng tự hoàn thành các nhiệm vụ, có các kĩ năng sống cần thiết cho bản thân.
 - Các em biết sống có trách nhiệm, biết giúp đỡ bạn bè, kính trọng thầy cô và người lớn tuổi, lớp không có trường hợp nghiện game, nghiện điện thoại di động. Xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, thi đua học tập tiến bộ.
 - Đa số các em có ý thức giữ gìn sách vở sạch, đẹp luôn luôn trau dồi, rèn luyện viết nên đạt chỉ tiêu cao về vở sạch, chữ đẹp (85% đạt loại A), đạt nhiều giải học hinh viết chữ đẹp cấp trường. Đạt lớp "Xanh-sạch-đẹp", "lớp học thân thiện". Tham gia đạt chỉ tiêu cao các phong trào do nhà trường phát động.
 - Bản thân giáo viên được trau dồi kinh nghiệm, rút ra được nhiều bài học quý trong việc giáo dục hình thành và phát triển các năng lực, phẩm chất cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay.
 - Phụ huynh học sinh an tâm, tin tưởng vào chất lượng giáo dục của nhà trường của giáo viên chủ nhiệm, rất phấn khởi khi thấy con em mình có tiến bộ về nhiều mặt. Phụ huynh sẵn sàng hợp tác cùng với giáo viên trong quá trình day học. Mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh trở nên thân thiết, gắn bó; phụ huynh sẵn sàng chia sẻ những trăn trở, khó khăn hoặc những kinh nghiệm trong cuộc sống.
 * Kết quả khảo sát cuối năm 2017-2018 của 29 học sinh lớp 3/4 như sau:
TT
Các năng lực
Xếp loại Tốt
Xếp loại Đạt
Xếp loại Cần cố gắng
So với đầu năm
(loại tốt)
Số HS
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
1
Tự phục vụ, tự quản
24
82,75
5
17,24
0
Tăng 31,03%
2
Hợp tác
25
86,20
4
13,79
0
Tăng 37,93%
3
Tự học và giải quyết vấn đề
22
75,86
7
24,13
0
Tăng 31,03%
TT
Các phẩm chất
Xếp loại Tốt
Xếp loại Đạt
Xếp loại Cần cố gắng
So với đầu năm
(loại tốt)
Số HS
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
Số HS
Tỉ lệ %
1
Chăm học, chăm làm
26
89,65
3
10,34
0
Tăng 37,93%
2
Tự tin, trách nhiệm
25
86,20
4
13,79 
0
Tăng 41,38%
3
Trung thực, kỷ luật
29
100
0
0
Tăng 51,73%
4
Đoàn kết, yêu thương
29
100
0
0
Tăng 44,83%
 2. Khả năng áp dụng
 Đây là sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để học hỏi, nghiên cứu, áp dụng. Để thực hiện thành công đề tài này đòi hỏi người giáo viên phải chú ý phát hiện những hạn chế của học sinh trong quá trình thực hiện; phải hết sức tận tâm, kiên trì trong giảng dạy theo hướng cá thể hóa từng em không nên nản chí. Giáo viên phải coi sự tiến bộ của học sinh làm niềm vui cho mình. Tôi tin rằng đề tài này có thể áp dụng tốt cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 3 trong trường tiểu học An Long A, toàn huyện Tam Nông nói riêng và toàn tỉnh Đồng Tháp nói chung. 
An Long, ngày 25 tháng 3 năm 2018
Người viết SKKN
Bùi Phú Nghĩa

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_hinh_thanh_va_phat_tr.doc