ĐỀ THI HỌC KÌ 2 MÔN: NGỮ VĂN – KHỐI 8 Thời gian làm bài 90 phút Đề Số 1. THCS- HỒ TÙNG MẬU Câu 1: (2đ) a) Em hãy nêu nét chính về tác giả Lí Công Uẩn? b) Em hãy nêu những nét chính về nghệ thuật của văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn? Câu 2: Văn bản “ Đi bộ ngao du ” của Ru-xô có ý nghĩa gì? (1đ) Câu 3:(2đ) a) Hành động nói là gì?. b) Cho hai ví dụ về hành động nói được thực hiện theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Câu 4:(5đ) “Sự bổ ích của những chuyến tham quan du lịch của học sinh”. Em hãy làm sáng tỏ vấn đề trên. Đáp án đề 1 Câu 1 (2đ) a) – Lí Công Uẩn(974-1028) tức vua Lí Thái Tổ. – Quê Bắc Ninh Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn. – Ông là người sáng lập ra vương triều nhà Lí,lấy niên hiệu là Thuận Thiên. (1đ) b) – Gồm có ba phần chặt chẽ. – Giọng văn trang trọng, thể hiện suy nghĩ, tình cảm sâu sắc của tác giả về một vấn đề hết sức quan trọng của đất nước. – Lựa chọn ngôn ngữ có tính chất tâm tình, đối thoại: + Là mệnh lệnh nhưng “Chiếu dời đô” không sử dụng hình thức mệnh lệnh. + câu hỏi cuối cùng làm cho quyết định của nhà vua được người đọc người nghe tiếp nhận, suy nghĩ và hành động một cách tự nguyện. Câu 2: (1đ) Từ những điều mà “đi bộ ngao du” đem lại như tri thức, sức khỏe, cảm giác thoải mái, nhà văn thể hiện tinh thần tự do dân chủ- tư tưởng tiến bộ của thời đại. Câu 3: ( 3 đ) a) Hành động nói là hành động được thực hiện bằng lời nói nhằm một mục đích nhất định.(1đ) b) Ví dụ: Tớ muốn bạn mua cho tớ quyển sách . (HĐ nói gián tiếp) ( 1đ). Bạn làm bài tập xong chưa? (HĐ nói trực tiếp) ( 1đ). * Lưu ý: Tùy theo cách viết câu của học sinh xác định đúng yêu cầu câu hỏi là được. Câu 4 (5đ) – Viết đúng kiểu bài nghị luận (có kết hợp yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm) – Hành văn trôi chảy. – Bố cục đầy đủ. – Hạn chế mắc lỗi diễn đạt. Về nội dung: * Mở bài( 1đ) Nêu được lợi ích của việc tham quan. * Thân bài( 3đ) Nêu các lợi ích cụ thể: – Về thể chất: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta thêm khỏe mạnh. – Về tình cảm: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta : + Tìm thêm được nhiều niềm vui cho bản thân mình; +có thêm tình yêu đối với thiên nhiên, với quê hương đất nước +Về kiến thức: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta: + Hiểu cụ thể hơn sau những điều được học trong trường lớp qua những điều mắt thấy tai nghe; + Đưa lại nhiều bài học có thể còn chua có trong sách vở của nhà trường. * Kết bài: ( 1đ) Khẳng định tác dụng của việc tham quan. Đề Số 2: I. PHẦN VĂN BẢN: (3,0đ) Câu 1 (1,00đ): Chép đúng và đủ đoạn văn bản sau đây: Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. () Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có. Câu 2 (1,0đ): Tên văn bản có đoạn văn trên là gì? Tác giả là ai? Được viết vào lúc nào? Viết theo lối văn, thể văn gì? Câu 3 (1,0đ): Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của tác giả là gì? Người dân mà tác giả nói tới là ai? Kẻ bạo ngược mà tác giả nói tới là kẻ nào? II. PHẦN TIẾNG VIỆT: (2,00đ) Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: () ” – Bà lên đây làm gì thế? Đã bảo lên kiếm cơm ăn mà lại! Cái đĩ không tin thế. Nhưng nó cũng không hỏi nữa. Nó nhìn bà một lúc Da bà xấu quá! Sao giờ bà gầy thế? Chỉ đói thôi cháu ạ. Chẳng sao hết. Lúc này bà ở cho nhà ai? Chẳng ở với nhà ai. Thế bà lại đi buôn à? Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được, nhọc người lắm.” (“Một bữa no” – Nam Cao) Câu 1 (1,0đ): Trong đoạn hội thoại trên có bao nhiêu nhân vật tham gia giao tiếp? Các nhân vật có mối quan hệ gì với nhau? Xác định vai xã hội của các nhân vật đó. Câu 2 (1,0đ): Đoạn hội thoại có bao nhiêu lượt lời? Xác định lượt lời của từng nhân vật (theo số thứ tự). III. PHẦN TẬP LÀM VĂN: (5,0đ) Nhà văn Nguyễn Bá Học có nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Em hiểu câu danh ngôn trên như thế nào? Từ đó, em rút ra được bài học gì cho bản thân? Đáp án Đề 2 I. PHẦN VĂN BẢN: (3,00đ) Câu 1 (1,0đ): Chép đúng và đủ đoạn văn bản theo yêu cầu: (Nội dung trang 66 – 67 sgk NV8 – Tập hai) Câu 2 (1,0đ): – Tên văn bản: Nước Đại Việt ta (hoặc Bình Ngô đại cáo). 0,25đ – Tác giả: Nguyễn Trãi. 0,25đ – Thời điểm sáng tác: Đầu năm 1428 (sau khi quân ta đại thắng quân Minh). 0,25đ – Lối văn biền ngẫu, thể cáo (nghị luận cổ). 0,25đ Câu 3 (1,0đ): – Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa trong hai câu trên là yên dân, trừ bạo. Muốn yên dân phải trừ bạo và trừ bạo chính là để yên dân. 0,50đ – Người dân mà tác giả nói ở đây là nhân dân Đại Việt . Còn kẻ bạo ngược là giặc Minh xâm lược lúc bấy giờ. 0,50đ II. PHẦN TIẾNG VIỆT: (2,00đ) Câu 1 (1,0đ): Trong đoạn văn trên có hai nhân vật tham gia giao tiếp. 0,25đ – Họ có mối quan hệ bà cháu (gia đình thân thuộc) 0,25đ – Vai xã hội: Quan hệ trên – dưới (thứ bậc trong gia đình) 0,50đ Câu 2 (1,0đ): Đoạn hội thoại có 8 lượt lời: 0,50đ – Lượt lời người cháu: 1-3-5-7 0,25đ – Lượt lời người bà: 2-4-6-8 0,25đ III. PHẦN TẬP LÀM VĂN: (5,00đ) 1.Yêu cầu chung: – Kiến thức: Đường đi – đường đời của mỗi con người không hề dễ dàng. Nhưng những khó khăn đó không lớn bằng lòng ngại khó của con người. Nếu đủ ý chí, quyết tâm, nghị lực thì sẽ vượt qua được những thử thách để tới đích. – Kĩ năng: Diễn đạt rõ ràng, mạch lạc; lập luận logic, chặt chẽ. – Phương pháp: Nghị luận giải thích (có kết hợp với chứng minh và bình luận) 1. Mở bài: – Sức mạnh của ý chí quyết định sự thành bại trong mọi công việc. Thiếu ý chí thì sẽ khó vượt qua trở ngại để thành công. – Dẫn câu danh ngôn. 0,50đ 2. Thân bài: a. Giải thích ý nghĩa câu nói: – Nghĩa đen: Đường đi có nhiều chướng ngại, vất vả. Ta muốn đến nơi phải quyết tâm vượt qua núi cao sông sâu. – Nghĩa bóng: + Đường: Dẫn đến đích mà con người muốn đạt được + Sông, núi: Những trở ngại lớn của hoàn cảnh khách quan. + Lòng người: Ý chí, nghị lực của con người. – Sức mạnh của ý chí giúp con người vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để thành công. b. Vì sao đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông: – Vì sao đường đi không khó vì những trở ngại khách quan? (Trong cuộc đời tuy có nhiều trở ngại thật, nhưng không phải là không thể chiến thắng. Núi cao đến mấy, sông rộng đến mấy, người ta vẫn có thể vượt qua. Cũng vậy, mọi khó khăn, gian lao trên đường đời chỉ là thử thách ý chí, nghị lực của ta chứ không thể làm cho ta lùi bước nếu ta quyết tâm). – Vì sao đường đi lại khó vì lòng người ngại núi e sông? (Điều kiện quyết định để thực hiện ý muốn của mình là ý chí và nghị lực. Với lòng quyết tâm, con người có thể vượt qua thử thách để đạt mục đích mà mình đã chọn. Thiếu ý chí, thiếu nghị lực thì cho dẫu đường đời thuận lợi, cũng khó vượt qua để đến đích). * Dẫn chứng: – Trong sách vở, tác phẩm văn học. – Trong lịch sử, trong thực tế (gương các danh nhân, các gương vượt khó trong cuộc sống) c. Rút ra bài học: Xem việc rèn luyện ý chí là không thể xao lãng. Chỉ có quyết tâm vượt khó mới đem lại thành công trên đường đời. 1,00đ 3. Kết bài: – Câu danh ngôn là một chân lí, khẳng định vai trò của ý chí, quyết tâm và nghị lực trong cuộc sống. – Liên hệ thực tế bản thân trong học tập và cuộc sống. Đề số 3: Câu 1: (1,5 điểm) a) Chép lại những dòng thơ còn thiếu sau đây: “Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt .. Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.” b) Nêu nội dung chính của khổ thơ đó? Câu 2: (1,5điểm) a) Hãy nêu đặc điểm hình thức và chức năng của câu nghi vấn? b) Lấy ví dụ về câu nghi vấn và cho biết chức năng của nó? Câu 3: (2 điểm) Qua văn bản “Chiếu dời đô”, Em hãy cho biết vì sao thành Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời? Câu 4: (5 điểm) Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam. Đáp án Đề 3 Câu1 – HS Chép đúng 8 câu thơ đầu: -Nội dung: Thể hiện tâm trạng: + chán ngán, căm hờn, uất ức khi bị nhốt trong cũi sắt. + khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ. + căm hờn sự tù túng, khinh ghét những kẻ tầm thường. +Vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, nó sống mãi trong tình thương nỗi nhớ. Câu2 a/ HS: Nêu được đặc điểm hình thức và chức năng của câu nghi vấn như sau: -Về hình thức: +Thường sử dụng từ nghi vấn như: sao, không, gì, nào +Kết thức câu nghi vấn bằng dấu chấm hỏi. (?) -Về chức năng: Câu nghi vấn dùng để hỏi. b/HS: -Lấy đúng ví dụ có các đặc điểm trên. -Gọi tên đúng chức năng của nó. Câu3 Nói Thành Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời là vì: – Vị trí địa lí: Trung tâm trời đất – Thế đất: “Rồng cuộn hổ ngồi” + Đúng ngôi + Tiện hướng + Đất rộng mà bằng, cao mà thoáng. – Đời sống nhân dân và cảnh vật: vô cùng phong phú, tốt tươi. -> Quý hiếm, sang trọng, đẹp đẽ, có nhiều khả năng phát triển. => là nơi thắng địa Câu4 I/Mở bài: -Giới thiệu chung về chiếc áo dài Việt Nam: + Chiếc áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. +Chúng ta hãnh diện,trân trọng chiếc áo dài truyền thống này. II/Thân bài: 1.Nguồn gốc, xuất xứ: -Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian..chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nghĩa là áo dài đã có từ rất lâu. – Tiền thân của áo dài hơi giống áo từ thân , sau đó qua lao động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chính sửa để phù hợp với thời trang của từng thời điểm. 2. Chất liệu vải: phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng mát. 3.Kiểu dáng -Cấu tạo +Áo dài từ cổ xuống đến chân +Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thích của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo. +Khuy áo thường dùng bằng khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông. +Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá chân. +Khi mặc áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật vóc dáng của người phụ nữ. + Tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển. -Khẳng định đó là nét đặc trưng khác biệt của chiếc áo dài việt Nam. -Màu sắc: Đa dạng, tùy theo sở thích lựa chọn của mỗi người. 4. Ý nghĩa. -Chiếc áo dài luôn giữ được tầm quan trọng của nó và trở thành bộ lễ phục của các bà, các cô. -Áo dài Việt Nam đã được tổ chức Unesco công nhận là 1 di sản Văn hoá phi vật thể, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. -Từ xưa đến nay chiếc áo dài đã trở thành tác phẩm mĩ thuật III.Kết bài: -Ngày nay có nhiều kiểu áo thời trang của nước ngoài du nhập vào nước ta, nhưng trang phục truyền thống, chiếc áo dài dân tộc vẫn là một biểu tượng đẹp của người phụ nữ Việt Nam . -Chiếc áo dài đã trở thành quốc phục. Đó là tâm hồn, cốt cách của người Việt gửi vào vẻ tha thướt, quyến rũ của chiếc áo Đề Số 4. – Phòng GD – ĐT Gò Vấp PHẦN I: Đọc hiểu văn bản (6 điểm) Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “ thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy trí thức cơ bản và biến đổi không ngừng . Câu 1: Đoạn văn trên trích từ văn bản nào? Tác giả là ai? (1 đ) Câu 2: Văn bản trên sử dụng phương thức biểu đạt nào? Nêu nội dung chính của văn bản ? (1đ) Câu 3: Chỉ ra hai phép liên kết có trong đoạn trích? (1đ) Câu 4: Từ việc hiểu nội dung đoạn văn trên, em hãy viết một văn bản nghị luận ngắn trình bày suy nghĩ về một điểm mạnh và một điểm yếu của chính bản thân em. (3 đ) PHẦN II: Tạo lập văn bản (4 điểm) Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từ giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. (Mùa Xuân Nho Nhỏ-Thanh Hải) Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về (Sang Thu- Hữu Thỉnh) Trình bày cảm nhận của em về thiên nhiên qua hai khổ thơ trên. Đáp Án Đề Số 4 PHẦN I: Đọc hiểu văn bản (6 điểm) Câu 1: Trích “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” (0,5đ). Tác giả: Vũ Khoan (0,5đ) Câu 2: Học sinh nêu được phương thức biểu đạt nghị luận (0,25 đ) Nêu nội dung chính: Khẳng định điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam (0,75 đ). Câu 3: Học sinh chỉ ra đúng hai phép liên kết. Mỗi phép liên kết đúng (0.5đ) Gợi ý: (2)-(1): bản chất trời phú ý (thế đồng nghĩa) (3)- (2): Nhưng (phép nối) (4)- (3): Ấy là (phép nối) (5)- (4): lỗ hổng (phép lặp từ ngữ) (5)- (1): thông minh (phép lặp từ ngữ) Câu 4: Học sinh viết đoạn văn ngắn trình bày nhiều cách, nhưng đảm bảo ý cơ bản sau: Giải thích 1 điểm mạnh và 1 điểm yếu Học sinh có thể lựa chọn 1 điểm mạnh như: thông minh, nhạy bén, đoàn kết, nhân ái, tốt bụng Nêu biểu hiện của điểm mạnh. Ý nghĩa của nó đối với bản thân, gia đình, xã hội. Điểm yếu học sinh có thể lựa chọn như: đố kị, thiếu nghị lực vượt khó, sùng ngoại hoặc bài ngoại, Nêu biểu hiện của điểm yếu. Tác hại của nó đối với bản thân, gia đình, xã hội. Nhận thức và biện pháp phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu. PHẦN II: Tạo lập văn bản Trình bày cảm nhận của em về thiên nhiên qua hai khổ thơ trên. Một số gợi ý Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ và nêu nhận xét, đánh giá của mình. Trình bày những suy nghĩ đánh giá về nội dung nghệ thuật của đoạn thơ. Mùa xuân nho nhỏ – Phép đảo ngữ “mọc” -> vừa đột ngột, vừa làm trỗi dậy một sức sống mạnh mẽ. – Sự phối hợp hai gam màu: xanh và tím biếc là biểu tượng của sự đằm thắm, dịu dàng, thanh nhã. – Từ cảm thán rất Huế “Ơi, chi mà” -> vừa tạo âm điệu ngọt ngào vừa diễn tả nỗi vui sướng của thi nhân khi thưởng thức âm thanh tiếng chim. – Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “giọt long lanh” ->Tình cảm yêu thiên nhiên tha thiết, say sưa, ngất ngây với vẻ đẹp của tiếng chim. – “Hứng” -> một thái độ trân trọng, nâng niu biết bao đối với giọt âm thanh tiếng chim, giọt sự sống. => Nhân vật trữ tình “tôi” hạnh phúc khi được yêu thương, gắn bó với đất trời, với thiên nhiên vào xuân. Sang thu – Cảm nận hương thu bằng hương ổi. – Từ “bỗng” -> cảm giác ngỡ ngàng, hứng thú. – Từ “phả” được dùng rất chọn lọc, tinh tế -> biểu đạt độ sánh, độ ngọt của hương thơm. – Từ láy kết hợp với nhân hóa “sương chùng chình” ->cố ý chậm bước lại, nửa muốn đi nhưng nửa muốn dùng dằng ở lại. – Hình ảnh “ngõ” -> vừa lả ngõ thực của làng xóm thôn quê vừa trở thành hình ảnh ẩn dụ cho cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. – “Hình như” -> cảm xúc ngỡ ngàng của con người trước tiết trời giao mùa. => Sự thành công của khổ thơ không chỉ nghệ thuật tả lập thu mà còn là tình yêu thiên nhiên của nhà thơ. * Nhận xét, đánh giá về thiên nhiên và cảm xúc của hai tác giả * Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ. Đề Số 5. Câu 1 (2.0 điểm): Đọc kỹ đoạn văn sau rồi thực hiện yêu cầu bên dưới: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Ai là tác giả của tác phẩm đó? b. Gọi tên và chỉ rõ một biện pháp nghệ thuật mà em đã học trong chương trình Ngữ Văn lớp 8 được tác giả sử dụng trong đoạn văn trên? c. Nêu tác dụng diễn đạt của biện pháp nghệ thuật đã được gọi tên ở trên. Câu 2 (3.0 điểm): Viết một bài văn ngắn trình bày về cái hay của phần trích sau: Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm; Mực đọng trong nghiên sầu Ông đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay, Lá vàng rơi trên giấy; Ngoài giời mưa bụi bay. (Ông đồ – Vũ Đình Liên) Câu 3 (5.0 điểm): Suy nghĩ của em về việc học. ___ ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 5 __ Câu 1 ( 2,0 điểm): a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm Hịch tướng sĩ => 0.25 điểm. Tác giả: Trần Quốc Tuấn => 0.25 điểm. b. Gọi tên và chỉ rõ một biện pháp nghệ thuật đã học trong chương trình Ngữ Văn lớp 8 được tác giả sử dụng trong đoạn văn: Biện pháp nói quá => 0.5 điểm; chỉ ra được biện pháp nói quá: “ chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa” => 0.5 điểm. c. Nêu tác dụng diễn đạt của biện pháp nghệ thuật nói quá (góp phần nhấn mạnh, tô đậm lòng căm thù giặc sục sôi và quyết tâm đánh giặc cháy bỏng của vị chủ tướng) => 0.5 điểm. Câu 2 ( 3,0 điểm): – Về nội dung: + Đoạn thơ khắc họa hình ảnh ông đồ ở thời tàn. + Ông đồ trở nên trơ trọi, bẽ bàng giữa sự thờ ơ của con người; giữa sự đìu hiu, úa tàn của khung cảnh thiên nhiên và rồi bị rơi vào quên lãng + Niềm cảm thương của nhà thơ – Về nghệ thuật: Nghệ thuật đặc tả, nhân hóa, câu hỏi tu từ * Về kỹ năng: – Biết đặt đoạn thơ trong mối quan hệ với chỉnh thể bài thơ để trình bày. – Có kỹ năng xác định yêu cầu của đề, biết viết một đoạn văn trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. – Viết được đoạn văn với bố cục hợp lý. – Không mắc lỗi về dùng từ, đặt câu, chính tả. Câu 3 (5.0 điểm): Cần bảo đảm những yêu cầu sau: + Trình bày về các phương diện cơ bản của việc học: * Ý nghĩa của việc học. * Mục đích của việc học. * Phương pháp học tập + Bàn luận, mở rộng về việc học hiện nay. + Định hướng của bản thân. Về kỹ năng: + Viết được bài văn nghị luận với bố cục hoàn chỉnh, lập luận chặt chẽ. + Diễn đạt trôi chảy, hành văn trong sáng. Bài mẫu: “Học để làm gì?” là một câu hỏi không mới, nó cũ kĩ như bản thân sự học vậy. Là câu hỏi “thường trực” của mọi thời học! Cũng cần khẳng định ngay rằng, khi lần đầu cắp sách đến trường, và nhiều năm sau đó, các em học sinh đâu đã có chút khái niệm gì về vấn đề này; mà chỉ thụ động vâng theo sự chỉ bảo của người lớn, của cha mẹ mà thôi! Chỉ khi thật sự lớn lên, nhiều em mới dần nhận thức ra điều đó. Cho nên câu cửa miệng của các bậc phụ huynh đối với con em là: “không chịu khó học, lớn lên chỉ có đi ăn mày!”. Câu ấy và những câu tương tự đã hình thành dần trong bộ não của trẻ khái niệm “học để làm gì?”. Vâng, “học để lớn lên không phải đi ăn mày, ăn xin!”. Bởi “ăn mày, ăn xin” thì khổ như thế nào, các em nhìn thấy hàng ngày rồi! Vậy, dù có “cao đạo” đến đâu, dù vô tình hay hữu ý, thì thực ra người lớn đã sớm định hướng cho con trẻ “mục tiêu” thực chất của sự học là gì rồi. Mục tiêu đó không sai, nhất là trong thời buổi “thực dụng” này. Nhưng sai ở chỗ, người ta cứ nói với các em: “Học để có kiến thức, để càng ngày càng có nhiều kiến thức”. Ý là “học không vì tấm bằng”; Cần “thực học” chứ không cần “bằng cấp”! Thương thay các em, nếu các em mà không có bằng cấp, thì các em vào đời sao đây? Về điểm này, tôi xin kể một chuyện, có lần con gái tôi đã bí trước câu hỏi của cậu con trai, khi cứ than vãn về kết quả học tập của nó: “Thế mẹ muốn con có điểm cao, hay muốn con có kiến thức?”! Chết chưa? Còn tuổi học trò mà lại không lấy điểm làm mục tiêu, thì làm sao mỗi năm lên một lớp đây; làm sao thi đỗ đại học đây? Không chỉ nhà trường, gia đình, mà ngay những nhà tuyển dụng lao động cũng thường tuyên bố (rất hay!): “chúng tôi cần người thực sự có kiến thức, chứ không cần người có bằng cấp”! Nhưng thực tế thì hồ sơ hàng đầu nộp cho cơ quan tuyển dụng, nhất định phải là cái bằng, theo đúng nghĩa đen! Càng nhiều bằng, càng thuận lợi khi xét tuyển. Kiến thức vẫn cứ phải đứng sau bằng cấp! Nhưng nếu định hướng mục tiêu sự học là tấm bằng, thì sẽ lại dẫn đến một kết cục còn bi đát hơn! Thực tế đã có không ít trường hợp, học chỉ để đối phó với thi cử mà thôi. Vậy là tình trạng “xin điểm”, “mua điểm” không thể không xẩy ra, không thể không phát triển. Còn bé thì cha mẹ “mua điểm” cho, lớn lên, tự mua lấy. Học “tại chức”, học “hàm thụ” bản thân nó không xấu; nhưng càng ngày nó càng tiêu cực, chính vì mục tiêu chính của thứ học này là để có “bằng”; bởi có bằng mới có cơ hội “phấn đấu” lên chức này chức nọ, lên “ông nọ, bà kia”! Đã có nhiều phụ huynh (nhất là những vị có chức sắc), khi con em mình học kém, không thi được vào đại học, thì dùng cách này, cách khác, “đưa” trẻ vào cơ quan nhà nước; làm tạm một công việc gì đó, rồi cho đi “hàm thụ”. Mấy năm sau, có bằng cấp, sẽ chạy “ghế” tiếp! Thế cho nên một số cơ quan công quyền (đặc biệt ở cấp địa phương), chất lượng cán bộ – không dám vơ đũa cả nắm đâu, nhưng phải thừa nhận rằng: nhiều người rất kém cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn phép ứng xử; làm ảnh hường lớn tới công cuộc cái cách hành chính của Nhà nước! Tôi lại xin kể chuyện này: Lần ấy, tôi đến chính quyền Phường xin chứng nhận vào đơn làm thẻ thư viện Tỉnh. Đơn đã được Tổ trường dân phố và Tổ trưởng lương hưu ký xác nhận và đề nghị theo đúng yêu cầu của cơ quan thư viện. Anh cán bộ văn phòng sau khi xem đã thảo nội dung chứng thực,; nhưng khi đưa lên chủ tịch, chủ tịch không ký, với lý do: chủ tịch phường không ký những chứng nhận như thế này! Tôi nói: giá cái thư viện này trực thuộc Phường ta, chủ tịch nói thế thì mừng quá! Nhưng đây lại là thư viện Tỉnh, họ làm theo quy định đã được chính quyền Tỉnh duyệt y; Phường thấy bất hợp lý thì phường báo cáo đề nghị lên Tỉnh, chứ Phường không có quyền bác bỏ! Anh văn phòng nhận ra lẽ phải, nhưng có lẽ ngại “Sếp”, nên dung hòa: “thôi cụ để khi khác, chủ tịch đang bận họp”! Kiến thức và bằng cấp cái nào cần hơn? Câu trả lời dễ nhất có lẽ là “cần cả hai”! Nhưng nếu lại hỏi: cái nào cần trước? thì nhiều khi cũng khó khẳng định. Vậy đấy! Định hướng “mục tiêu của sự học” như thế nào cho đúng Mong rằng các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ cũng như các em học sinh, hãy thực sự quan tâm!.
Tài liệu đính kèm: