PHẦN MỤC LỤC Nội dung Trang Phần mục lục, phụ lục I. Phần mở đầu 2 1.1 Lí do chọn đề tại 2 1.2 Phạm vi đề tài 2 II. Phần nội dung. 3 Thực trạng tình hình 3 Nội dung 3-14 III. Phần kết luận 15 3.1 Ý nghĩa 15 3.2 Những kiến nghị 15 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong những năm vừa qua sự nghiệp giáo dục của cả nước nói chung của tỉnh ta nói riêng đã phát triển rất mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số điều cần phải bàn bạc đó là: về phía học sinh một số em còn yếu về kĩ năng cơ bản cơ bản trong đó có môn Toán cũng phải bàn nhiều. Việc dạy học giải toán là một trong những vấn đề trọng tâm đối với mỗi giáo viên. Đối với HS thì giải Toán là hoạt động chủ yếu của việc học tập môn Toán. Theo tôi, để đạt được kết quả tốt thì việc hình thành và rèn luyện kĩ năng cho HS là việc làm hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Qua theo dõi, tôi thấy một số học sinh khi giải bài tập thường không biết bắt đầu từ đâu, không biết vận dụng kiến thức đã học vào việc giải bài tập, không biết cách trình bày lời giải, giải được rồi thì lần khác lại quên... Mặt khác, nếu các em cảm thấy không thực hiện nhiệm vụ đề ra thường tỏ ra chán nản, mệt mỏi, thiếu tập trung, không tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình. Vì lí do đó mà tôi đã quan tâm đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng về tư duy cũng như việc phân tích bài toán, suy luận, tạo điều kiện cho học sinh tăng cường luyện tập, thực hành, rèn luyện kĩ năng tính toán và vận dụng các kiến thức toán học vào đời sống và vào các môn học khác. 1.2. Phạm vi Đối với chương trình đại số 7, phần Biểu thức đại số là một vấn đề cần nghiên cứu, bởi phần này có rất nhiều khái niệm, nếu học sinh không hiểu khái niệm thì khó mà làm bài tập. Nếu học sinh không nắm được cách giải của bài giải mẫu thì không làm được các bài tương tự, ... Vì vậy tôi đã nghiên cứu nội dung này nhằm đưa ra Một số biện pháp giúp HS lớp 7 hình thành và rèn luyện kỉ năng qua dạy học chương IV: Biểu thức đại số. II. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng tình hình Đa số học sinh khi giải Toán, ban đầu về cơ bản là quá trình bắt chước theo mẫu, tuân thủ quá trình nhận thức chung. Có đọc sách, đọc tài liệu, đọc sách tham khảo, lên mạng tìm hiểu,... nhưng không biết cách đọc; không biết cách học bài cũ. học khái niệm chóng quên; không biết giải các bài tập ở mức độ vận dụng thấp; biết giải nhưng không biết trình bày lời giải; ở mức độ vận dụng cao khó vượt qua đối với các em khá giỏi; các em chưa biết cách tự kiểm tra kiến thức; HS chưa chủ động ôn tập lại nội dung chương đã học. 2.2. Nội dung a. Thiết kế Thiết kế kiểm tra trước tác động đối với một nhóm học sinh: Lý đình khang , Lê thị Hòa , Phạm văn Thanh , Phạm thu Hà ,Võ thị thùy Dương , Quách thị Mi , Hà viết Thắng b. Đo lường Tôi triển khai hoạt động khảo sát trước tác động được thực hiện nhằm thu thập thông tin về kĩ năng thu thập và xử lí thông tin trong phạm vi chương IV – Biểu thức đại số. Sau đó, tôi thực hiện 10 tiết học, các hoạt động chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự học. Sau mỗi tiết học, tôi ghi lại quan sát của mình và nhìn lại quá trình dạy học để tìm cách cải thiện cho tiết dạy tiếp theo. Từ đó, tôi đưa ra một số biện pháp khi hình thành và rèn luyện kĩ năng khi học chương Biểu thức đại số cho học sinh như sau: Biện pháp 1: Giúp HS biết cách tổ chức học tập nôi dung chương Để giúp HS cách tổ chức học tập nôi dung chương, có thể thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Xây dựng mục tiêu học tập: Cần giúp mỗi học sinh cách xây dựng kế hoạch học tập, bởi ban đầu HS chưa biết cách thiết lập mục tiêu cho mình. Tôi đã hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện theo các mục tiêu sau: Về kiến thức: Hiểu được khái niệm về biểu thức đại số; đơn thức; đa thức; nghiệm của đa thức. Về kĩ năng: Biết tính giá trị của một biểu thức đại số; cách viết một đơn thức ở dạng chưa thu gọn thành đơn thức thu gọn; biết nhân hai đơn thức; cộng trừ các đơn thức đồng dạng; biết thu gọn đa thức, tìm bậc của đa thức; Biết kiểm tra xem số a có phải là nghiệm của đa thức hay không. Bước 2: Thực hiện mục tiêu: là khâu quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của việc học hành của mỗi HS. Do đó, tôi đã đặt trọng tâm vào khâu này của mỗi HS để hướng dẫn, giúp đỡ, kiểm tra việc thực hiện.Việc thực hiện tốt mục tiêu học tập sẽ tạo ra được phẩm chất, năng lực người biết học, biết tự học.Trong khi thực hiện mục tiêu, bản thân tôi đã quán triệt HS cần phải: Tập trung tư tưởng khi học, khi tự học. Không thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng lúc. Không vừa học vừa xem vô tuyến, không nói chuyện lung tung,...Cần tạo hứng thú khi học, khi tự học. Tin rằng mình sẽ học được điều mình cần học, hy vọng rằng mình sẽ tìm được điều mới lạ khi học, có thể sẽ được thưởng sau khi kiểm tra chương đạt kết quả cao. Cần sử dụng thời gian một cách tối ưu, có hiệu quả cao nhất. Tập trung giải quyết dứt điểm từng nhiệm vụ, phương châm là đâu gọn đấy, học gì xong nấy, bài hôm nay không để ngày mai. Những gì vượt quá khả năng thì đánh dấu lại rồi có thể hỏi cô, nhờ bạn khi có điều kiện. Cần quyết tâm vượt khó, khắc phục khó khăn do điều kiện, hoàn cảnh cá nhân, gia đình,... Bước 3: Tự đánh giá việc thực hiện mục tiêu: tức là biết cách kiểm điểm lại xem các mục tiêu đặt ra có hoàn thành hết không? Mỗi mục tiêu có hoàn thành tốt không? Có những tồn tại gì, nguyên nhân, dự kiến cách khắc phục. Biện pháp 2: Giúp HS cách nghe - hiểu - ghi chép Để có được kiến thức cho mình, trên lớp HS phải biết kết hợp nghe - hiểu - ghi. Tuy nhiên, không phải HS nào cũng ý thức được điều đó. Do đó mỗi giáo viên chúng ta phải hình thành và rèn luyện cho HS khả năng nghe - hiểu - ghi. Trước hết, cần hình thành và luyện tập cho HS khả năng nghe-ghi. Để hình thành và luyện tập khả năng này tôi đã luyện tập cho HS từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, ...: Ban đầu tôi đã giúp HS bằng cách nói rõ đoạn nào chỉ cần nghe, đoạn nào cần ghi, khi đó tôi đọc cho HS chép các kiến thức cơ bản. Chẳng hạn, mục 1. Nhắc lại về biểu thức (Xem bài 1- Khái niệm về biểu thức đại số). Tiến tới, luyện tập cho HS cách nghe – ghi: bằng cách tự cho HS nghe , sau đó tóm lại ý chính, GV chỉnh sửa. Chẳng hạn, nội dung chú ý về cách thực hiện các quy tắc, phép toán trong biểu thức đại số, tôi đã là như thế. Về sau, ở mức độ cao hơn, tôi yêu cầu mỗi em tự nghe - ghi theo cách hiểu của mình, nội dung nhấn mạnh tôi đọc chậm hoặc lặp lại, ...Chẳng hạn, khi dạy mục 3. Hệ số (Xem bài 7- Đa thức một biến). Qua nhiều lần như thế hình thành và rèn luyện ở HS cách nghe - ghi trên lớp. Chú ý rằng, để hình thành cho HS cách nghe - ghi cần luyện tập theo mẫu và luyện đi luyện lại. Chỉ chuyển tiếp khi nhận thấy HS đã tự làm được theo yêu cầu đặt ra.Sau khi HS đã biết cách nghe - ghi, tôi đã luyện tập cho HS cách nghe - hiểu. Khi HS nghe - hiểu, tức là HS nắm được kiến thức cơ bản để có thể tự ghi, GV không phải can thiệp vào quá trình HS ghi bài nữa. Quá trình hình thành và rèn luyện khả năng nghe - hiểu tương tự như nghe - ghi. Nghe - hiểu giúp HS tiếp nhận được lượng thông tin lớn hơn, do tốc độ nghe nhanh hơn tốc độ ghi.Tuy nhiên, cần yêu cầu HS tự ghi lại kiến thức cơ bản khi tự học bài ở nhà, lúc này HS hồi tưởng lại lần hai, góp phần hiểu và nhớ thêm một lần nữa kiến thức. Thực tế cho thấy, nhiều HS về nhà không tự ghi lại kiến thức đã nghe - hiểu, do đó, sau một thời gian kiến thức bị mai một, dẫn tới rỗng kiến thức.Tôi thấy rằng, một trong các giải pháp đổi mới PPDH môn toán ở trường THCS là sử dụng tối đa SGK, do đó khả năng nghe - hiểu là quan trọng, và đảm bảo được tiến độ bài giảng. SGK mới, nếu GV vẫn dạy theo kiểu nghe - ghi thường không đủ thời gian. Khi HS biết cách nghe - ghi cũng như nghe - hiểu là đã hình thành được ở HS một kỉ năng quan trọng, đó là kỉ năng hiểu được ý tưởng người khác. Về sau HS sẽ có thể biết cách hỏi GV, hoặc hỏi bạn những nội dung chưa thật sự hiểu, cũng như có thể biết tranh luận để tìm ra chân lí, tiếng nói chung. Khi kỉ năng hiểu được ý tưởng người khác được hình thành thì HS tự chủ hơn trong học tập. Biện pháp này cần được thực hiện tốt trong các khâu của quá trình lên lớp. Đồng thời GV cần hình dung trước cách HS nghe - ghi, nghe - hiểu khi tự học ở nhà như thế nào để kịp thời hướng dẫn HS tự học. Với cách dạy học như vậy, tôi chủ động thiết kế, hướng dẫn quá trình tự học của HS ở nhà. Nên tận dụng tối đa cơ hội trong giờ học trên lớp để HS có thể được nghe - ghi, nghe hiểu. Đồng thời tôi phải kiểm tra để đảm bảo đã hình thành và rèn luyện cho mỗi HS thói quen, ý thức nghe - ghi và nghe - hiểu. Biện pháp 3: Giúp HS cách đọc hiểu Tương tự như nghe - hiểu, HS cần được luyện tập cách đọc - hiểu. Tuy nhiên, so với nghe - hiểu thì đọc - hiểu ở cấp độ cao hơn, mức độ độc lập, tự giác ở HS cao hơn.Việc hình thành và rèn luyện cho HS cách đọc - hiểu tương tự như hình thành và rèn luyện việc nghe - hiểu, cần theo mức độ tăng dần, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, ... Chẳng hạn: Ban đầu tôi cho HS đọc - hiểu một nội dung ngắn, ví dụ đọc hiểu khái niệm Biểu thức đại số. Ở đây SGK viết với tinh thần: tạo điều kiện để HS được đọc hiểu, thông qua đó hình thành khái niệm một cách không áp đặt. Sau khi đã đọc hiểu một nôi dung đơn giản, cho HS đọc hiểu một chứng minh đơn giản. Chẳng hạn, đọc - hiểu hai ví dụ về đơn thức (Xem bài 3: Đơn thức).Tiếp theo luyện cho HS cách đọc - hiểu lời giải một bài toán đơn giản . Chẳng hạn, đọc - hiểu cách Cộng, trừ các đơn thức đồng dạng. Để tăng cấp độ nhận thức, tôi cho HS đọc - hiểu một nội dung phức tạp. Chẳng hạn, mục Nghiệm của đa thức một biến (Xem bài 9: Nghiệm của đa thức một biến). Tiếp theo cho HS đọc - hiểu lời giải một bài tập phức tạp, như mục Có thể em chưa biết: (xem SGK tr29).Tiến tới giúp HS đọc - hiểu cách giải một dạng toán như dạng: Tính giá trị của một biểu thức đại số (xem muc 1/tr27); Nhân hai đơn thức (xem muc 4/tr31,32); cộng trừ các đơn thức đồng dạng (xem muc 2/tr34);... Theo tôi: trong học Toán, quan trọng là vận dụng được kiến thức trong giải bài tập, do đó chúng ta cần giúp HS đọc - hiểu yêu cầu một bài toán để có thể chuyển bài toán đó thành các nhiệm vụ, từ đó giải quyết các nhiệm vụ đặt ra để có lời giải bài toán. Để hệ thống hóa kiến thức, cần luyện cho HS đọc hiểu một nội dung, có thể đọc và chuẩn bị bài Đơn thức đồng dạng trước khi đến lớp hoặc tự ôn tập một chủ đề về Đa thức. Khi HS đã biết cách đọc - hiểu thì có thể tự đọc trước bài học ở nhà, đến lớp chủ động hơn khi tham gia tiết học. Biện pháp 4: Giúp HS cách học bài cũ Để HS học bài cũ được tốt, tôi thường hướng dẫn HS học bài ở nhà theo trình tự: Sau khi học ở trường về, học lại ngay, làm ngay những nội dung được học, khi đó thuộc bài nhanh. Nếu chẳng may bận, ốm đau thì em đó đã tích lũy một lần rồi, trong trường hợp đó vẫn thuộc bài, làm bài đầy đủ.Sau khi học bài cũ, có thể nghiên cứu sâu nội dung đã học.Gần đến ngày học bài tiếp theo, xem lại một lần nữa, như vậy gần như mỗi bài được học ba lần, kiến thức được khắc sâu hơn.Chẳng hạn, với bài Đơn thức để giúp các em ôn bài tôi đã hướng dẫn: Về nhà, các em cần bố trí thời gian ôn lại bài học ngay trong ngày hôm nay, để một lần nữa củng cố, khắc sâu kiến thức.Trước hết các em tự hồi tưởng lại bài học, xem đã học được những gì? Nội dung nào đã hiểu nội dung nào chưa hiểu? nội dung nào quên? ... Với nội dung nào chưa nhớ, chưa hiểu hoặc quên cần học lại ngay. Khi học bài cũ các em nhớ đọc lại để hiểu kỉ lí thyết, tức là hiểu được: cách nhận biết một biểu thức nào đó là đơn thức; đơn thức thu gọn, phần hệ số, phần biến của đơn thức; nắm được cách nhân hai đơn thức; biết cách viết một đơn thức ở dạng chưa thu gọn thành đơn thức thu gọn.Để ôn bài, các em có thể thực hiện các nhiệm vụ theo các trình tự đã chỉ ra trong phiếu học tập sau đây: PHIẾU HỌC TẬP Câu 1: Viết 5 đơn thức của hai biến x, y trong đó x và y có bậc khác nhau. Câu 2: Cho biết phần hệ số, phần biến của các đơn thức ở câu trên. Câu 3: Khi nhân hai đơn thức em cần chú ý điều gì? Cho ví dụ minh họa. Câu 4: Làm bài tập 10, trang 32 SGK. Câu 5: Cho các chữ x, y. Lập hai biểu thức đại số mà: - Một biểu thức là đơn thức - Một biểu thức không phải là đơn thức. Câu 6: Làm bài tập 12, trang 32 SGK. Câu 7: Làm bài tập 13, trang 32 SGK. Câu 8: Làm bài tập 14, trang 32 SGK. Câu 9: Hãy điền đơn thức thích hợp vào mỗi ô trống đưới đây: x2yz 25x3y2z2 = 15x3y2z = 5xyz . 25x4yz -x2yz = = xy3z = Câu 10: Điền vào bảng sau: Đơn thức Giá trị biểu thức tại x = -1; y = - x = 1; y = -2 x = -3; y = -1 5x2y2 x2y3 x2y Biện pháp 5: Giúp HS tự chiếm lĩnh khái niệm Trong Toán học việc dạy học khái niệm có một vị trí quan trong hàng đầu. Việc hình thành một hệ thống các khái niệm Toán học là nền tảng của toàn bộ kiến thức Toán, là tiền đề hình thành khả năng vận dụng hiệu quả các kiến thức đã học, đồng thời có tác dụng góp phần phát triển năng lực trí tuệ. Tuỳ theo từng loại khái niệm mà đặt ra các yêu cầu chiếm lĩnh. Ở đây tôi đưa ra hai con đường chiếm lĩnh khái niệm: Con đường thứ nhất đó là con đường quy nạp. Quá trình tiếp cận khái niệm theo con đường này thường diễn ra như sau: Đầu tiên, GV đưa ra một số ví dụ cụ thể để HS thấy sự tồn tại của một loạt đối tượng nào đó.Tiếp theo, GV dẫn dắt HS phân tích, so sánh và nêu bật những đặc điểm chung của các đối tượng đang được xem xét. Sau đó, GV gợi mở để HS phát biểu định nghĩa bằng cách nêu các tính chất đặc trưng của khái niệm. Con đường này nên thực hiện khi trình độ của HS còn thấp, vốn kiến thức còn chưa nhiều và thường được sử dụng trong điều kiện: chưa phát hiện được một khái niệm nào làm điểm xuất phát cho con đường suy diễn.Quá trình hình thành khái niệm bằng con đường quy nạp chứa đựng khả năng phát triển những năng lực trí tuệ như so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, thuận lợi cho việc hoạt động tích cực của HS. Vì thế cần chú trọng khai thác khả năng này. Con đường thứ hai hình thành khái niệm là con đường suy diễn. Quá trình tiếp cận khái niệm theo con đường này thường diễn ra như sau: Thứ nhất, xuất phát từ một khái niệm đã biết, thêm vào nội hàm của khái niệm đó một số đặc điểm mà ta quan tâm. Thứ hai, phát biểu định nghĩa bằng cách nêu tên khái niệm mới và định nghĩa nó nhờ một khái niệm tổng quát hơn cùng với những đặc điểm hạn chế một bộ phận trong khái niệm tổng quát đó. Thứ ba, đưa ra ví dụ đơn giản minh họa cho khái niệm vừa được định nghĩa. Con đường này nên thực hiện khi trình độ của HS đã khá hơn, vốn kiến thức đã nhiều lên.Việc hình thành khái niệm mới bằng con đường suy diễn tiềm tàng khả năng phát huy tính chủ động và sáng tạo của HS, tiết kiệm được thời gian. Tuy nhiên, con đường này hạn chế phát triển năng lực trí tuệ chung như phân tích, tổng hợp, so sánh, ... Biện pháp 6: Giúp HS cách giải các bài tập ở mức độ vận dụng thấp Bài tập đơn giản là các bài tập mà các từ (cụm từ), các ý các câu trong giả thiết chỉ có một cách hiểu và kiến thức tương ứng với nội hàm dó đã được HS hiểu. Chẳng hạn, sau khi học song khái niệm.. Giải các bài tập ở mức độ vận dụng thấp chủ yếu là củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng. Tức là qua quá trình đó HS tự nâng mức độ nhận thức từ nhận biết sang mức độ thông hiểu, tiến tới vận dụng được. Biện pháp này có tác dụng giúp HS khắc sâu kiến thức cơ bản thông qua qiai đoạn “học”, từ đó kết hợp “học với “hành”.Với ý tưởng như vậy, Gv nên lựa bài tập sao cho qua việc giải bài tập đó HS hiểu sâu, nhớ lâu và tiến tới vận dụng nhanh. Để làm được điều đó, GV cần nắm rõ đối tượng để có cách tiếp cận thích hợp. Giao nhiệm vụ nhận thức phù hợp với đối tượng HS. Biện pháp 7: Giúp HS cách tìm lời giải một bài tập Để hướng dẫn HS tìm lời giải bài tập, trước hết tôi phải đóng vai trò là người học, tự mình tiến hành giải bài tập đó, tìm ra các kiến thức cơ bản, dạng toán, các bước giải bài toán. Trên cơ sở đó phân bậc hoạt động phù hợp ví đối tượng HS, dự kiến các câu hỏi dẫn dắt, gợi mở sao cho thông qua hoạt động của mình HS không những tìm được lời giải bài toán mà còn tự đúc rút cho mình tri thức về phương pháp giải toán. Khi thiết kế bài soạn, GV nên chọn bài tập mà hoạt động tìm lời giải có thể tến hành một cách tự nhiên, vừa củng cố khắc sâu được kiến thức, đồng thời có bài tập tương tự để HS có thể bắt chước khi rèn luyện kĩ năng. Tránh những bài tập không mẫu mực, có cách giải đặc biệt, lắt léo. Biện pháp này giúp HS vận dụng thành thạo kiến thức, từ đó hiểu được bản chất kiến thức thông qua giai đoạn “hành”. Biện pháp 8: Giúp HS giải các bài tập ở mức độ vận dụng cao Bài tập ở mức độ vận dụng cao là bài tập đòi hỏi vận dụng kiến thức tổng hợp, là những bài tập khó.Chẳng hạn, trong một bài toán mà giả thiết có cum từ “Cho tam giác cân...”, HS hiểu như thế nào? Tôi đã giúp HS biết được với giả thiết có nhiều cách hiểu khác nhau, chẳng hạn: Các định nghĩa tương đương của tam giác cân: Hai góc ở đáy bằng nhau; hai cạnh bên bằng nhau;...Các tính chất của tam giác cân: đường cao xuất phát từ đỉnh đối diện với đáy đồng thời là đường trung tuyến, đồng thời là đường phân giác, đường trung trực. Đường cao xuất phát từ đỉnh đối diện với đáy là trục đối xứng của tam giác đó. Để rèn luyện HS cách vận dụng lí thuyết vào bài tập tổng hợp, tôi đã biết lựa chọn các bài tập đa dạng, sắp xếp theo thứ tự tăng dần về mức độ khó, chẳng hạn: Loại củng cố khắc sâu kiến thức: Tương tự ví dụ hoặc ví dụ giải mẫu trong phần lí thuyết; Loại rèn luyện kĩ năng: Có bài tập và bài tương tự để HS có thể bắt chước theo mẫu; Loại ôn tập vận dụng: Bài tập tổng hợp, các câu hỏi được phân bậc, sao cho HS khi giải được câu trước sẽ là tiền đề để giải câu sau; Loại phát triển (toán sao): Nâng cao cho đối tượng khá, giỏi; Loại tự đánh giá: Một số đề tự luận. Biện pháp 9: Giúp học sinh cách tự kiểm tra kiến thức Để HS có thể tự kiểm tra kiến thức được tốt, tôi đã dựa vào trọng tâm đã học cũng như kiến thức chuẩn bị cho bài sau, đồng thời dựa vào vấn dề chuẩn bị cho các bài kiểm tra, các kì thi,... mà thiết kế các câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra,... có phân bậc theo mức độ khó, dễ, phức tạp,...để HS tự học, tự kiểm tra kiến thức, sau đó kiểm tra kiến thức theo nhóm. Như vậy câu hỏi và bài tập cho HS tự kiểm tra kiến thức phần nào đó giống với câu hỏi kiểm tra, thi,... tức là kiểm tra HS có thực hiện được mục tiêu bài dạy hay không, đồng thời kiểm tra HS đã chuẩn bị được gì cho việc ôn thi, kiểm tra. Tôi đã hướng dẫn HS các bước tiến hành để có thể tự kiểm tra kiến thức được tốt: Một là, tự học bài cũ. Hai là, tự vận dụng kiến thức trong giải bài tập. Ba là, tự trả lời câu hỏi. Bốn là, khi đã vượt qua được các công đoạn trên, HS có thể tự chủ động kiểm tra kiến thức thông qua cách học nhóm, từ 2 HS trở lên, một học sinh nảo đó đề xuất để các thành viên tranh luận. Như vậy, để tự kiểm tra kiến thức HS phải tự ôn bài cũ trước, tự kiểm tra kiến thức,... đồng thời tự tổ chức quá trình tự học của mình sao cho hiệu quả nhất. Chú ý rằng: Trong học tập, nhiều khi HS tự nhận thức được mình đang sai, do đó tự học, tự ôn lại bài cũ, tự kiểm tra kiến thức đôi khi vẫn không chắc chắn hiểu bản chất kiến thức. Do đó, cần có người đối chứng, thông qua tranh luận của mỗi HS tự nhận thức lại việc nắm kiến thức của mình, sau đó yuwj điều chỉnh. Tự kiểm tra kiến thức thế là biện pháp chuẩn bị bài tích cực. Nhiều khi qua tranh luận, câu hỏi của HS đua đưa ra trùng với câu hỏi mà tôi định kiểm tra. Trong trường hợp đó, HS sẽ hiểu được việc tự học đã có giá trị, tạo đà cho việc học tập tiếp theo. Tự kiểm tra kiến thức là một năng lực cần có của người HS học tập tích cực.Một hình thức kiểm tra kiến thức thường thấy là khâu kiểm tra bài cũ của HS trước khi vào bài mới. Do đó, nếu HS đã tự kiểm tra kiến thức của mình tốt sẽ đạt kết quả cao trong khi kiểm tra bài. Ngược lại, HS sẽ bất ngờ và lúng túng trong trả lời.Một khó khăn trong việc tự kiểm tra kiến thức là HS không có thời gian và điều kiện gặp gỡ bạn để trao đổi. Góp phần khắc phục tình trạng này, tôi đã giúp HS tự kiểm tra kiến thức thông qua phần hướng dẫn học ở nhà. Có khi tôi đọc cho HS ghi, có khi chuẩn bị sẳn ở bảng phụ hoặc phát phiếu học tập mà nội dung đáp ứng được các vấn đề đã nêu. Với cách làm đó và điều kiện có sự hỗ trợ của máy vi tính, HS có thể tự kiểm tra kiến thức đã học. Biện pháp 10: Giúp HS cách ôn tập lại nội dung chương Để HS tự ôn tập chương, ban đầu tôi đã chủ động đưa ra những gợi ý, câu hỏi,... để HS trả lời, sau đó bổ sung để có được mạch kiến thức cơ bản, tri thức phương pháp,... Giai đoạn này cần phải luyện tập cho HS có thể lĩnh hội được ôn tập là như thế nào và để làm gì? Ôn tập tích cực là như thế nào? Ai là người chủ động trong ôn tập? Làm thế nào để nắm được toàn cảnh nội dung chương? Mạch kiến thức cơ bản là gì? Có bao nhiêu dạng toán đã được học và cách giải mỗi dạng như thế nào?... Sau đó, ở mức độ cao hơn, tôi yêu cầu HS chuẩn bị nội dung ôn tập, tôi chỉ hướng dẫn và chính xác hóa trên lớp khi cần thiết sao cho mỗi HS đọng lại kiến thức và kĩ năng. Cuối cùng, ở mức độ cao nhất, GV yêu cầu HS tự đưa ra bảng (hay bản đồ tư duy) tổng kết kiến thức theo cách hiểu của mình. c. Phân tích dữ liệu Sau một thời gian, tôi quan sát thấy học sinh tham gia xây dựng bài nhiều hơn. Các em cũng tự chăm chú hơn vào các bài học và mau chóng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các em cũng chủ động yêu cầu giúp đỡ khi không chắc chắn. d. Kết quả Có chuyển biến rõ rệt qua các lần kiểm tra bài cũ, 15 phút. Cụ thể: TT Họ và tên HS Lớp Điểm lần 1 Điểm lần 2 Điểm lần 3 1 Lý đình khang 7 A 6 7 9 2 Lê thị Hòa 7 A 4 5 6 3 Phạm văn Thanh 7 A 2 3 5 4 Phạm thu Hà 7 B 8 9 10 5 Võ thị thùy Dương 7 B 7 8 9 6 Quachs thị Mi 7 B 5 6 7 7 Hà viết Thắng 7 B 2 4 5 Rút ra nhận xét: chất lượng của các lần kiểm tra sau tác động cao hơn. Nhiều học sinh đã biết cách đọc sách, đọc tài liệu, đọc sách tham khảo, lên mạng tìm hiểu,...; biết cách học bài cũ. học khái niệm; biết giải các bài tập ở mức độ vận dụng thấp; biết trình bày lời giải; ở mức độ vận dụng cao các em khá giỏi đã vượt qua; các em đã biết cách tự kiểm tra kiến thức; HS chủ động ôn tập lại nội dung chương đã học. Tuy nhiên một số vẫn còn mơ hồ, thiếu tích cực. Các biện pháp bổ trợ: Phân loại đối tượng học sinh theo từng kĩ năng. Bổ trợ cho học sinh các kĩ năng còn yếu như: Các tính giá trị của một biểu thức đại số; cách viết một đơn thức ở dạng chưa thu gọn thành đơn thức thu gọn; nhân hai đơn thức; cộng trừ các đơn thức đồng dạng; biết thu gọn đa thức, tìm bậc của đa thức; kiểm tra xem số a có phải là nghiệm của đa thức hay không ...bằng mười biện pháp được đưa ra trong phần nội dung. III. KẾT LUẬN 3.1 Ý nghĩa Với cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề như trên, trong khi truyền thu cho học sinh tôi thấy học sinh lĩnh hội được kiến thức một các thoải mái, rõ ràng có hệ thống. Học sinh được rèn luyện nhiều về các kĩ năng: Tính giá trị của một biểu thức đại số; Viết một đơn thức ở dạng chưa thu gọn thành đơn thức thu gọn; Nhân hai đơn thức; Cộng trừ các đơn thức đồng dạng; Thu gọn đa thức, tìm bậc của đa thức; Biết kiểm tra xem số a có phải là nghiệm của đa thức hay không, ... Qua đó rèn luyện được cho học sinh trí thông minh, sáng tạo và các phẩm chất trí tuệ khác, xóa đi cảm giác khó và phức tạp ban đầu, giúp học sinh có hứng thú khi học bộ môn này. Với những bài tập giáo viên giao, học sinh đã giải được 90 % một cách tự lập và tự giác. 3.2. Những kiến nghị Là nhiều năm dạy Toán 7 nối riêng và giảng dạy theo đooir mới chương trình, bản thân thấy rằng dựa vào SGK, SBT và tham khảo thêm một số tài liệu Toán khác trong quá trình dạy học giải Toán có thể rèn luyện cho học sinh kĩ năng giải bài tập rất tốt. Từ chỗ các em bở ngỡ, mơ hồ trong giải toán, đến nay các em đã biết vận dụng được, biết suy nghĩ và lập luận có căn cứ, biết trình bày lời giải lôgic, chặt chẽ. Bên cạnh đó, việc chú trọng hệ thống bài tập theo yêu cầu dạy họcđề ra thì có thể không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục, tạo niềm say mê học tập môn Toán cho học sinh. Trên đây là một số biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng qua dạy học chương IV- Biểu thức đại số cho học sinh lớp 7 chắc chắn sẽ chưa thể hoàn hảo được. Vậy tôi rất mong sự góp ý chân tình của các bạn đồng nghiệp để đề tài có tính khả dụng hơn, đáp ứng với yêu cầu của giáo dục. Xin chân thành cảm ơn! Cao Ngọc, ngày 21 tháng 03 năm 2016 Xác nhận của hội đồng khoa học Người thực hiện: HÀ QUANG CHINH PHẦN PHỤ LỤC Trong bản sáng kiến kinh nghiệm này có tham khảo thêm tài liệu: Sách giáo khoa Toán 7 – tập 2. Sách bài tập Toán 7 – tập 2. Sách giáo viên Toán 7 – tập 2. Sách Thiết kế bài giảng Toán 7 – tập 2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (42004-2007) môn Toán – quyển 2. Phòng Giáo Dục & Đào Tạo Ngọc Lặc Trường THCS Cao Ngọc .. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 7HINHF THÀNH VÀ RÈN LUYỆN KỈ NĂNG QUA DẠY HỌC CHƯƠNG IV: BIỂU THỨC ĐẠI SỐ Đơn Vị : Trường THCS Cao Ngọc Họ và Tên : Hà Quang Chinh Chức Vụ : giáo viên Năm Học : 2015-2016
Tài liệu đính kèm: