1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài: Thơ là điệu nhạc của tâm hồn, là kết tinh tiếng lòng người nghệ sỹ, biểu hiện trong ngôn từ nghệ thuật đặc biệt: cô đọng, hàm xúc và tinh tế. Hiểu được thơ, cảm được thơ không dễ, phải có một tâm hồn đồng điệu, một năng khiếu trời cho, một lòng say văn thực sự ...Có vậy, ta mới dễ hòa nhịp đập trái tim với tiếng lòng của người nghệ sỹ. Nói như hoàng thơ Xuân Diệu: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác”, “hồn” là nội dung ý nghĩa, “xác” là nghệ thuật của thơ. Nhưng làm thế nào để học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp về “xác” và “hồn” thơ ấy? Điều đó thật không dễ! Nhiều năm qua, tôi trực tiếp đứng lớp, nắm bắt kĩ năng viết văn của từng học sinh theo khóa học. Đồng nghiệp – cũng như tôi còn rất nhiều băn khoăn, trăn trở, khi đọc những bài viết của các em cảm nhận về đoạn thơ, bài thơ. Học sinh còn vụng về trong cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn cách khai thác nội dung, nghệ thuật thơ, viÖc n¾m ®îc kh¸i niÖm ®o¹n v¨n, tõ ng÷ chñ ®Ò, c©u chñ ®Ò trong ®o¹n v¨n vµ mét sè c¸ch tr×nh bµy néi dung ®o¹n v¨n còng nh kÜ n¨ng viÕt ®o¹n cña häc sinh nãi chung, häc sinh THCS Th¹ch Hßa nãi riªng cßn nhiÒu h¹n chÕ. ChØ cã mét sè häc sinh kh¸ giái biÕt viÕt mét ®o¹n v¨n cã cÊu tróc râ rµng, m¹ch l¹c chÆt chÏ, cßn phÇn lín häc sinh trung b×nh vµ yÕu kh«ng biÕt dùng ®o¹n. §o¹n v¨n c¸c em viÕt thêng lñng cñng thiÕu tÝnh liªn kÕt chÆt chÏ, m¹ch l¹c. viÖc n¾m ®îc kh¸i niÖm ®o¹n v¨n, tõ ng÷ chñ ®Ò, c©u chñ ®Ò trong ®o¹n v¨n vµ mét sè c¸ch tr×nh bµy néi dung ®o¹n v¨n còng nh kÜ n¨ng viÕt ®o¹n cña häc sinh nãi chung, häc sinh THCS Th¹ch Hßa nãi riªng cßn nhiÒu h¹n chÕ. ChØ cã mét sè häc sinh kh¸ giái biÕt viÕt mét ®o¹n v¨n cã cÊu tróc râ rµng, m¹ch l¹c chÆt chÏ, cßn phÇn lín häc sinh trung b×nh vµ yÕu kh«ng biÕt dùng ®o¹n. §o¹n v¨n c¸c em viÕt thêng lñng cñng thiÕu tÝnh liªn kÕt chÆt chÏhành văn chưa mạch lạc, chặt chẽ, sơ sài, suy diễn chung chung, vừa thừa vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề, không biết xây dựng luận điểm Thi học sinh giỏi văn lớp 9 thì không đạt giải, không lọt vào đội tuyển. Là giáo viên dạy văn, tôi thực sự lo lắng về thực trạng này. Trong quy định phân phối chương trình Ngữ văn lớp 6-7-8 các em đã tiếp cận với số lượng văn bản thơ không nhỏ xong không có thời lượng cho thực hành, chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong các bài giảng văn bản. Vì vậy, nhận thức về kiến thức tạo lập văn bản rất mờ nhạt, học sinh chưa hiểu được khái niệm kiểu bài, thể loại, chưa định hình việc tạo lập văn bản nghị luận thơ là gì. Đến Ngữ văn 9, số tiết dành cho thực hành viết nghị luận về thơ rất khiêm tốn (1tiết), luyện nói (2tiết). Số tiết học giảng văn bản thơ tới 19 tiết, chênh lệch lí luận và thực hành rất lớn. Do vậy, học sinh khó nắm bắt được kĩ năng viết nghị luận về đoạn thơ, bài thơ đồng nghĩa hiệu quả viết bài dạng tập làm văn này không cao. Hiện tại, chưa có nhiều tài liệu chính thống, nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, nhà trường, đồng nghiệp còn lúng túng, khó khăn giải quyết, khắc phục hạn chế của học sinh khi làm dạng văn này. Học văn là học cách làm người: biết yêu thương, căm thù, giận hờn biết sẻ chia...Những bài viết của các em một phần thể hiện tâm hồn, suy nghĩ, cách cảm, cách hiểu về thế giới quan, nhân sinh quan. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ theo chuẩn kiến thức và kĩ năng ngành yêu cầu. Đúc rút từ thực tế học văn, dạy văn, nhân đây, tôi mạnh dạn góp một vài ý kiến của mình qua nghiên cứu kinh nghiệm: “Hướng dẫn kĩ năng nghị luận thơ đạt hiệu quả cho học sinh lớp 9”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Mục đích của tôi khi thực hiện đề tài này nhằm góp phần củng cố kĩ năng tạo lập văn bản, kĩ năng viết tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 9, nâng cao kết quả thi vào 10 và thi học sinh giỏi môn Ngữ văn của trường THCS . - Bồi đắp niềm tin, tình yêu thơ văn cho học sinh. 1.3 Đối tượng nghiên cứu: - Là những học sinh đang theo học lớp 9 trường THCS Xuân Lai. - Phạm vi thực hiện: ứng dụng vào các tiết học văn học, tập làm văn, các buổi học bồi dưỡng, phụ đạo buổi chiều và ôn thi vào 10. - Đề tài nhiên cứu tìm hiểu sâu hơn, phát hiện và ứng dụng những giải pháp nâng cao hiệu quả kĩ năng nghị luận thơ. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu - Điều tra khảo sát nắm bắt tình hình thực tế. - Tiến hành thực nghiệm trong các tiết dạy. - Dạy học trực quan (gắn lí thuyết và thực hành cụ thể). 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Đây hoàn toàn không phải là vấn đề mới, thực tế có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả tên tuổi như Nguyễn Khắc Viện, Trần Đình Sử... Căn cứ vào tài liệu chính thống trong nhà trường từ: Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ Văn 9 đã cung cấp cho học sinh những kiến thức lí luận chung cách nghị luận về đoạn thơ, bài thơ như : khái niệm, yêu cầu, các bước làm bài, nhiệm vụ từng phần theo bố cục bài văn... Đó chính là những cơ sở lí luận có tác dụng định hướng cho việc nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp nhằm khắc phục mâu thuẩn, khó khăn, tồn tại mà tôi đã trình bày trong phần đặt vấn đề. Tuy nhiên, những bài viết ấy còn lí thuyết chung, chưa cụ thể, hoặc chưa phù hợp với đặc điểm bộ môn và tiếp nhận của học sinh địa phương. 2. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Thực tế, Sách giáo khoa, sách giáo viên, phân phối chương trình Ngữ Văn 9 ở phân môn làm văn chỉ có 2 tiết (T124 - T125) trang bị kiến thức lí luận cho học sinh về nghị luận thơ, 2 tiết luyện nói (T139 - T140) và phân môn giảng văn bản có 19 tiết /14 tác phẩm thơ và 1tiết kiểm tra thơ. Như vậy, chênh lệch số tiết thực hành tập làm văn và giảng văn rất lớn. Điều đó hạn chế khả năng hình thành kĩ năng nghị luận về thơ của học sinh. Thực tế nhiều học sinh kêu ca : “học thơ khó, phân tích thơ cũng khó”. Hiểu thơ thế nào cho đúng, cho trúng? Mỗi tiết học chỉ có 45p, cái khó của người giáo viên là làm sao cho học sinh hiểu, khắc sâu kiến thức liên quan đến tác phẩm. Mỗi tiết kiểm tra định kì là 45ph - 90ph số học sinh viết có bố cục, có nội dung, có độ sắc thật khiêm tốn. Trường địa phương chúng tôi, năm học 2013-2014 có 58 em, gạn đục khơi trong chỉ có 5 em có kĩ năng làm bài nghị luân thơ, 13 học sinh viết khá, số còn lại là yếu kém. Nhiều em còn chưa biết hình thành câu, đoạn, chưa có kĩ năng xây dựng luận điểm hoặc đưa ra luận điểm nhưng chưa biết vận dụng các phép lập luận, chưa tìm được luận cứ, bước khái quát nâng cao vấn đề bị bỏ qua Tất cả những hạn chế đó xuất phát từ những kiến thức lí luận còn nghèo nàn thậm chí xem thường các tiết học Tập làm văn . Thực tế tập làm văn là tiết khó: khó dạy, khó học. Giáo viên ngại dạy. Học sinh ngại học hay cho rằng chỉ cần có năng khiếu là học được, viết được Đây là cách hiểu không sai nhưng chưa chính xác. Năng khiếu là cái trời cho nhưng nếu có năng khiếu mà không rèn rũa, tìm tòi phát huy nâng cao, không có kiến thức lí luận cơ bản thì viết bài nghị luận khó cho đúng, cho hay Có thời gian dài người ta thích ra đề bài kiểm tra trắc nghiệm. Bên cạnh ưu điểm, tích cực hình thức kiểm tra đánh giá này. Nếu giáo viên nào lạm dụng sẽ hạn chế khả năng viết tự luận của học sinh. Học văn mà không viết thì vô tình làm mất đi vẻ đẹp đặc thù của bộ môn .Vì vậy, kĩ năng nghị luận của các em vốn kém lại càng kém hơn . Vào đầu năm học, tôi khảo kĩ năng nghị luận thơ của học sinh qua bài tập nhỏ: + Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về một đoạn thơ đã học ? +Vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật qua một bài thơ đã * Kết quả khảo sát chất lượng trước khi thực hiện đề Tài: Khối lớp Tổng học sinh KẾT QUẢ XẾP LOẠI Giỏi Khá Trung bình Yếu TS % TS % TS % TS % 9A 25 2 2% 7 8,% 10 40% 6 20% 9B 33 3 9% 6 18% 16 48% 10 30% Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy số học sinh không có kĩ năng nghị luận viết bài còn nhiều, số học sinh có kĩ năng viết đoạn thành thạo còn ít. Trên bài làm của hầu hết các em thể hiện việc nắm kiến thức lí luận còn lơ mơ. Do vậy để khắc phục hạn chế của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi giáo viên phải có những giải pháp hợp lí. Đó là lí do tôi chọn đề tài này để trình bày sáng kiến:“Hướng dẫn kĩ năng nghị luận thơ đạt hiệu quả cho học sinh lớp 9” 2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Năng lực Nghị luận thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt cũng như các thao tác, phương pháp, kiến thức lí luận ...Viết bài văn nghị luận đúng, trúng và hay bao giờ cũng dành cho người nắm được kĩ năng. Nghị luận thơ mà không có phương pháp thì khó bề đặt chân đến bờ chân - thiện - mĩ của thi phẩm. Muốn vậy, Giáo viên cần hiểu biết vững sâu về thơ, có nhiệm vụ cung cấp vốn kiến thức lí luận về thơ cho học sinh . Giải pháp 1: Cung cấp kiến thức các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cần chú ý khi nghị luận về thơ : Giáo viên chỉ ra cho học sinh nắm được các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật mà nhà thơ thường dùng để biểu hiện tình cảm, tư tưởng qua : Ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu từ, thể thơ , nhan đềVà những điều lưu ý khi phân tích các yếu tố ấy. Kiến thức lí luận chung này rất quan trọng giúp học sinh làm quen và dần khắc sâu kĩ năng phân tích thơ . a. Ngôn ngữ Thơ - Kiến thức lí luận : Ngôn ngữ thơ cô đọng, lời ít ý nhiều mang dấu ấn riêng của mỗi người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ phải chính xác, giàu hình tượng và biểu cảm tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không có cách nào khác là nhờ vào hệ thống này. “Văn học là nghệ thuật ngôn từ”do tầm quan trọng ấy mà người ta xem nhà văn nhà thơ là người lao động chữ nghĩa. P.Reveredy nói: “Chỉ một từ thôi cũng đủ tiêu diệt bài thơ hay nhất”. Không cần lý giải dài dòng vẫn thấy vai trò quan trọng của từ ngữ thơ. Đó là những từ “sáng”, từ “đắt”, từ làm nên giá trị nội dung thơ . - Tổ chức thực hiện: Giáo viên cần chỉ ra cho hoc sinh chú ý không thoát li từ ngữ, phát hiện và phân tích từ ngữ thơ bằng cách đặt ra các câu hỏi : - Tại sao tác giả không dùng từ này mà lại là từ khác ? Ví dụ : Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió xe (Sang Thu –Hữu Thỉnh) - “Phả”: động từ có nghĩa là tỏa vào trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ : lan, tan, bay, tỏa thay cho từ “phả” nhưng cả bấy nhiêu từ không có cái nghĩa đột ngột bất ngờ ..Từ “phả“cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm đặc nhất, thơm nồng quyến rũ hòa trong gió heo may lan tỏa khắp không gian tạo nên mùi hương ngọt mát của những trái ổi chín vàng rộ, gợi ta liên tưởng đến những khu vườn xum xuê trái ngọt ở nông thôn Bắc Bộ. - Đặt ra câu hỏi : Tại sao từ này lại lặp lại nhiều lần có tác dụng gì ? Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy ? Có thể thay thế từ này với các từ khác không ? - Trong câu thơ ấy, đoạn thơ ấy những từ ngữ nào cần chú ý phân tích? Ở đây cũng cần nhắc nhở các em không phải từ nào, câu nào cũng đáng phân tích cũng có giá trị như nhau, chính vì vậy biết phát hiện phân tích cũng là năng lực trình độ. Trong thực tế không ít em đi phân tích hết các câu, từ nào cũng khen hay dẫn đến cách suy diễn tán tụng thái quá . Thần thái của thơ có khi được tập trung trong một từ, một cụm từ, hay một câu thơ. Giáo viên khi hướng dẫn phân tích cần gợi mở cho học sinh tìm, phát hiện các “nhãn tự”, các từ “sáng”, từ“đắt” và cảm nhận chính xác nghĩa biểu đạt nội dung của các từ ngữ ấy. Ví dụ: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng... (Mã Giám Sinh mua Kiều –Truyện Kiều,Nguyễn Du) Chỉ bằng từ “tót” Nguyễn Du đã giết chết Mã Giám Sinh, vạch trần bộ mặt giả dối, bản chất lưu manh, vô học của con buôn họ Mã. hay câu thơ : “Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi lại đi trời xanh thêm” (Bài thơ tiểu đội xe không kính ) - “chông chênh” là từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tư thế không bằng phẳng, không chắc chắn, gợi sự nguy hiểm của người lính trên đường lái xe ra tuyền tuyến. Đây là nét vẽ hiện thực được Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu cam go họ phải ăn - những bữa ăn vội vàng, xoàng xĩnh, phải ngủ - những giấc ngủ tranh thủ, ngắn ngủi trên xe hay dọc đường đi giữa làn mưa bom bão đạn quân thù Song từ : “chông chênh”còn gợi tả phong thái ung dung của người lính. Bom đạn của quân thù không thể hủy diệt sự sống ngược lại sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại bất diệt trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng của chính nghĩa Như vậy,Từ ngữ thơ mang thần thái của thi phẩm và tài năng thơ của người sáng tác. c. Hình ảnh thơ : - Kiến thức lí luận: Hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, giàu sức gợi có tính hàm xúc, thể hiện tư tưởng, tinh thần, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. - Tổ chức thực hiện : khi giảng văn, giáo viên gợi cho học sinh nhận ra đâu là hình ảnh cần phân tích, cảm nhận . Ví dụ : Viết về mùa xuân, Nguyễn Du đã miêu tả hình ảnh nào? Cảm nhận của em về bức tranh mùa xuân qua các hình ảnh ấy? Cỏ non xanh tận chân trời cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Truyện Kiều - Nguyễn Du ) Viết về Mùa xuân chỉ bằng hai câu thơ tuyệt bút, Nguyễn Du đã phác họa bức tranh xuân tươi tắn, tràn ngập ánh sáng, màu sắc. Hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: thảm cỏ non xanh vô tận chân trời là gam nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy, điểm xuyết vài bông hoa lê trắng, màu sắc hài hòa tới mức tuyệt đối : mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo( xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, tinh khiết (vài bông hoa trắng ). Chữ “ điểm”làm cho cảnh vật trở nên sinh động chứ không tĩnh tại. Nguyễn Du, tuy không tả mặt biển mà ta như dập dờn say giữa những con sóng đung đưa của cỏ xanh hoa trắng . “Thi trung hữu họa” là đấy. *Suy nghĩ hình ảnh “vầng trăng” trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Hình ảnh ấy mang nhiều tầng nghĩa, trước hết là vầng trăng tự nhiên tươi mát, tròn đầy. Trăng còn là hình ảnh biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, người bạn tri kỉ với tuổi thơ lam lũ, hồn nhiên vui sống giữa thiên nhiên không so đo, toan tính. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng. Kháng chiến thành công, người ta mãi mê với những dục vọng hay nhốt mình trong cửa kính buyn - đinh sống cho riêng mình. Lúc này, Trăng tượng trưng cho quá khứ thủy chung, cho những tình cảm lớn lao, mộc mạc nhưng bất tử , sáng trong. Con người có thể dửng dưng với quá khứ còn “trăng vẫn tròn vành vạnh”cũng như quá khứ không bao giờ mờ phai, khuyết thiếu. Trăng vẫn bao dung khiến những ai vô tình phải giật mình, thức tỉnh. Ánh trăng là ánh nhìn.... - Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc ( Mùa Xuân nho nhỏ- Thanh Hải) Sắc xanh của mùa xuân, sắc tím của bông hoa đã mở ra không gian rộng, thoáng đãng nổi bật hình ảnh, màu sắc đặc trưng của xứ Huế làm nên bức tranh xuân tươi đẹp, thơ mộng, tràn đầy sức Xuân. Thiên nhiên xòe nở trước lòng xuân, trời xuân bát ngát. Tóm lại, khi nghị luận về thơ, giáo viên chỉ cho học sinh sự cần thiết cần bám vào hình ảnh thơ để khai thác nội dung thơ. d. Giọng điệu : - Kiến thức lí luận : “giọng điệu là một phương diện biểu hiện quá trình chủ thể sáng tạo. Giọng điệu thể hiện thái độ lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến”(Thuật ngữ văn học ) - Tổ chức thực hiện : Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận ra giọng điệu của từng nhà thơ qua đọc hiểu văn bản để thấy được phong cách sáng tác, cái khác biệt của người nghệ sĩ. Từ đó nhận ra đặc điểm âm hưởng thơ của một thời đại văn học, một giai đoạn lịch sử dân tộc, cốt cách tâm hồn một lớp thế hệ, một địa phương. Giọng điệu được thể hiện qua nhịp thơ, ngôn ngữ thơ và nội dung thơ... Ví dụ : Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang tính khẩu ngữ, đậm chất lính tráng, khoẻ khoắn, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. “Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. ( Bài thơ về Tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật) Giọng điệu thơ Thanh Hải tha thiết, trìu mến, trữ tình như hồn phách con người cố đô: .....Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. (Mùa Xuân nho nhỏ) Viễn Phương chân thành, nhẹ nhàng, tinh tế, giàu cảm xúc. Thơ Y Phương đẹp như một bức tranh thổ cẩm nhiều màu sắc, mang cái hồn cái vía của con người vùng cao. Bằng Việt trong trẻo, mượt mà thường khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với người đọc .... Nắm được đặc điểm giọng điệu của từng nhà thơ, làm rõ đặc điểm đó qua văn bản đôi khi chỉ cần một khổ thơ cũng đủ minh chứng cho phong cách thơ tác giả ấy. e. Biện pháp tu từ: - Kiến thức lí luận: Muốn làm bài văn phân tích thơ đúng, hay và sâu, học sinh phải có kiến thức vững về tiếng việt, nhận biết và cảm được vai trò của biện pháp tu từ trong việc diễn đạt nội dung thơ. Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Phân tích biện pháp tu từ chính là chỉ ra tính hiệu qủa của cách viết, cách nói ấy chứ không đơn thuần là gọi được tên, liệt kê các biện pháp mà nhà thơ . - Tổ chức thực hiện: Giáo viên cung cấp kiến thức khái niệm lí luận về các biện pháp tu từ trên kết hợp với dẫn chúng cụ thể, giao bài tập thực hành kiểm tra đánh giá kết quả (kiến thức về biện pháp tu từ các em đã học từ lớp 6, vì vậy thông qua các tiết giảng văn giáo viên lồng ghép để khắc sâu kiến thức thêm.) * Biện pháp so sánh: Biện pháp nghệ thuật này khá phổ biến trong thơ. Thế mạnh của biện pháp so sánh góp phần gợi ra trí tưởng tượng của người đọc những hình ảnh cụ thể, những liên tưởng thú vị, chính xác về đối tượng được nói đến . Ví dụ: Nguyễn Du sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả không khí tết Thanh minh ? Câu thơ: “Ngựa xe như nước áo quần như nen” (Cảnh ngày Xuân-Nguyễn Du) - “Ngựa xe như nước’, Nguyễn Du mượn dòng nước để tả dòng ngựa xe tấp nập trong tếtt thanh minh. “Quần áo” là hình ảnh hoán dụ chỉ con người. “Nen” là một loại cây mọc san sát nhau ở ven biển miền Trung (có ở nhiều nơi quê hương Nguyễn Du). Câu thơ đã diễn tả không khí nhộn nhịp của tết thanh minh. Người đông đúc, san sát với nhau, còn ngựa xe thì tấp nập trên mọi ngả đường. Cái vui chung hướng ngoại ấy làm nền cho cái buồn riêng của Kiều ( khi Kiều gặp mộ Đạm Tiên và được Đạm Tiên báo mộng). * Phân tích biện pháp tu từ trong việc diễn đạt nội dung khổ thơ. Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao. Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước... ( Mùa xuân nho nhỏ -Thanh Hải) Biện pháp tu từ so sánh kết hợp với nghệ thuật điệp từ gợi cho người đọc nhiều xúc động. Từng vần thơ nhẹ nhàng trong sáng cứ ngân nga mãi trong lòng người nghe, lôi cuốn ta trước vẻ đẹp của đất nước vào xuân. Bước đi của mùa xuân như đang hoà nhịp với bước “ đi lên phía trước ” của dân tộc trên hành trình "vất vả gian lao " nhưng rất đỗi tự hào : Mùa xuân đến giữa hương sắc và âm thanh đất trời, lòng người vui “xôn xao”. Cả một dân tộc bừng bừng khí thế, một sức xuân dào dạt “ hối hả” bước đi giữa mùa xuân. Mùa xuân mang đến cho quân dân ta một sức sống mới, nhiệt tình cách mạng mới, hăng hái, khẩn trương lên đường. Cả một dân tộc ngập tràn niềm vui. Người "người xôn xao” đón chào một mùa xuân đẹp, một “ mùa xuân hồng" * Hoán dụ : Ví Dụ : « Xe vẫn chạy vì Miền nam phía trước chỉ cần trên xe có một trái tim » ( Bài thơ về tiểu đội xe không kính ) “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Trái tim (bộ phận) - trái tim của người lính chứa dòng máu yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng Miền Nam và niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng (toàn thể ). Những chiếc xe không kính càng độc đáo hơn bởi có trái tim cầm lái. * Nhân hóa : - Ví dụ : “hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ”. (Ánh Trăng-Nguyễn Duy ) Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ Trăng như người bạn tình nghĩa, thuỷ chung. Cuộc sống trong rừng thời chiến gian khổ, khó khăn nhưng trăng vẫn đến với người lính bằng một tình cảm chân thành, nồng hậu, không chút ngần ngạiÁnh trăng đã trở thành một biểu tượng cao đẹp: “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa”, “ánh nhìn của quá khứ” *Biện pháp ẩn dụ: Hình ảnh « lộc » gợi cho em những suy nghĩ gì ? Ví dụ: Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải) “Lộc”được hiểu từ hai nghĩa.“Lộc” là mầm non nương mạ, là màu xanh vòng lá ngụy trang. Lộc còn là sức sống thanh xuân đang trỗi dậy, đua nhau giục giã, thôi thúc lòng người, là sức xuân, tươi mới của quê hương, đất nước. Những người lao động, chiến đấu mang cả sức xuân ra trận địa để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Ý nghĩa biểu tượng hình ảnh bếp lửa trong bài thơ cùng tên của Bằng Việt : Bếp lửa là hình ảnh ẩn dụ đẹp. Hình ảnh thân quen trong mỗi gia đình gợi sự ấm nóng, no đủ và không khí sinh hoạt đầm ấm ở mỗi làng quê. Bếp lửa tỏa sáng câu thơ, lung linh chân dung người bà, tâm hồn bà, là ngọn lửa của tình yêu thương của niềm tin, của sức sống bền bỉ, là ý chí nghị lực phi thường trong bà. Bếp lửa chuyển thành « ngọn lửa » biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt. Bà luôn ủ sẵn và truyền vào tim cháu tự nhiên như hơi thở, sự sống. Ngọn lửa ở đây không chỉ được nhen lên bằng rơm, bằng dạ còn là ngọn lửa thiêng thiêng trong lòng bà- ngọn lửa của tình yêu thương – -biểu tượng chung cho toàn dân tôc, đất nước, thắp sáng cho đến mai sau. Giáo viên cũng cần lưu ý với các em, trong quá trình nghị luận cần phân tích kết hợp tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong khổ thơ, bài thơ cho việc diễn đạt nội dung thơ. Ví dụ : Cảm nhận khổ thơ đầu bài thơ: « Đoàn thuyền đánh cá » của Huy Cận. Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cài cửa. Bóng tối dần bao trùm nhưng biển cả không kì bí mà đẹp đẽ, thân thiện, là người bạn lớn của con người. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồn cùng gió khơi Đoàn thuyền chứ không phải chỉ một con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển. Chữ “lại”vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài thường xuyên, thói quen thành nề nếp, vừa thể hiện sự đối lập đất trời đi vào trạng thái nghỉ ngơi cũng là lúc bắt đầu công việc của người ngư dân. Tác giả đã vẽ nên một hình ảnh khỏe, gắn kết 3 sự vật: Câu hát, cánh buồm và gió khơi. Người ngư dân căng buồm và cất câu hát lên, nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động được làm chủ biển trời quê hương đất nước trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi. - Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực : Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi vì họ tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với công việc chinh phục và làm giàu cho Tổ quốc. Tóm lại, biện pháp tu từ có thế mạnh riêng trong cách biểu đạt tình cảm nội dung thơ. Khi nghị luận thơ giáo viên chỉ cho học sinh biết chú ý khai thác tác dụng đúng mức của các biện pháp này thì bài viết sẽ sâu hơn, tròn trịa hơn. Hiệu quả : Việc cung cấp kiến thức lí luận chung - những chú ý nội dung, nghệ thuật khi nghị luận về thơ giúp các em có cái nhìn tổng quan hơn về tác phẩm tạo tâm thế làm quen, niềm hứng thú với thơ ca, xóa bỏ thành kiến về nghị luận thơ khó, để tự tin hơn với bài làm của mình. Tôi luôn chú trọng kiến thức lí luận trong các tiết dạy và kết hợp lí luận với thực hành cụ thể qua các bài tập kiểm tra, đánh giá. Thực tế,tôi thu lại nhiều hiệu quả tích cực. Giải pháp 2: Cung cấp Kiến thức Lí luận chung khi làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ * Khái niệm : + Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu... * Yêu cầu : Muốn làm được một bài nghị luận văn học hay cùng với kiến thức, năng lực cảm thụ, người viết cần có kĩ năng kết hợp đồng thời, linh hoạt nhiều phép lập luận: giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận... để làm sáng tỏ vấn đề, trình bày một cách thuyết phục ý kiến, nhận định của mình. - Bài văn cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ đúng đắn, sinh động và lập luận sắc bén. - Lời văn phải chuẩn xác, trong sáng, thể hiện rung cảm chân thành, tự nhiên. Như vậy, một bài văn nghị luận hay vừa đòi hỏi sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng. * Các bước tạo lập văn bản Sơ đồ : 4 bước tạo lập văn bản 1 2 3 4 Tìm hiểu đề, tìm ý Lập dàn ý Viết bài Đọc, sửa lỗi A - Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý: * Tìm hiểu đề: - Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý mệnh đề: suy nghĩ, phân tích, cảm nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài) - Tìm nội dung bàn luận? (Nội dung và nghệ thuật bài thơ, đoạn thơ...) - Tìm phạm vi kiến thức để phục vụ cho vấn đề bàn luận mà đề yêu cầu? (tác phẩm nào? Của ai? Hoặc kiến thức thuộc lĩnh vực nào... *Tìm ý: - Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp, phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, nhan đề đặc biệt phải bám sát bố cục của bài để tìm luận điểm. Vì Vậy, giáo viên nhắc học sinh đọc thuộc, kĩ chú thích sách giáo khoa đó là kiến thức văn học sử mang tính khách quan, chân thực là cơ sở ban đầu tiếp cận tác phẩm. B - Bước 2: Lập dàn bài. Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Các em hay bỏ qua để thực hiện bước viết bài dẫn đến hậu quả hệ thống luận điểm sắp xếp không theo trật tự lô gic, các ý lộn xộn, thiếu ý, bỏ luận điểm trong bài viết. Vậy, bước này, giáo viên cần phải làm gì để giúp các em tránh khỏi những tồn tại trên? Người dạy nhắc và kiểm tra, yêu cầu nắm vững kiến thức cơ bản triển khai theo hệ thống luận điểm, luận cứ mà giáo viên đã hướng dẫn các em tìm hiểu qua các tiết giảng văn. Bố cục của bài văn nghị luận gồm 3 phần rõ ràng: b1/ Mở bài: - Giới thiệu vài nét về tác giả (tên,quê quán, đề tài, phong cách, ) - Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ tác phẩm, vị trí đoạn thơ. - Nêu vấn đề cần nghị luận,ý kiến nhận đinh (cần bám sát đề bài , nếu có luận điểm cần trích dẫn ). Ví dụ: “Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương” . Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang – người con của mảnh đất cực Nam của Tổ quốc. Ông là nhà thơ có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” sáng tác năm 1976, trong không khí xúc động của nhân dân cả nước khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được hoàn thành, đồng bào Miền Nam mong ước được ra thăm lăng Bác. Đây là, một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài lãnh tụ, với những thành công đặc sắc giá trị nội dung và nghệ thuật . b2/ Thân bài: - Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm - Dựa vào bố cục bài thơ để tìm hệ thống luận điểm, luận cứ. - Nêu luận điểm 1 – luận cứ 1 – luận cứ 2,(Các luận điểm, luận cứ này các ý 1, 2, 3ý a, ý b,..mà các thầy cô đã giảng trong bài học về tác phẩm ấy ). -Học sinh cần chỉ ra giá trị nội dung thứ nhất là gì, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì? Giá trị tư tưởng tình cảm gì?, - Nêu luận điểm 2 – luận cứ 1 – luận cứ 2,Cần chỉ ra giá trị nội dung thứ 2, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì, giá trị tư tưởng tình cảm gì(các luận điểm luận cứ tiếp theo dựa vào bố cục của đoạn thơ, bài thơ ) - Nhận định chung : khắc sâu giá trị tư tưởng – chỉ ra thành công về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm (so sánh với các tác phẩm khác cùng thời) và nêu hạn chế của nó (nếu có). VD:. Với đề bài trên, chúng ta phải triển khai những luận điểm và tương ứng với những luận cứ sau: * Luận điểm 1: Cảm xúc tác giả trước cảnh vật bên ngoài lăng - khổ 1) + Luận cứ 1: Câu thơ thứ nhất “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chứa đậm chất tự sự, nó như một lời kể, lời thông báo với Bác. Tác giả xưng hô “con” với “Bác”diễn tả tình cảm của nhân dân với lãnh tụ gần gũi, thân mật như con với cha. Từ “thăm”- nói giảm nói tránh làm giảm đi nỗi đau mất mát vô cùng to lớn trước sự ra đi của Người.) + Luận cứ 2: Hình ảnh tả thực hàng tre “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” trong sương sớm, mờ ảo, lung linh trước lăng Bác, một hình ảnh quen thuộc nơi làng quê về đây hội tụ. + Luận cứ 3: Hình ảnh ẩn dụ “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam- Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” tượng trưng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước. => Khổ đầu mang niềm xúc động với tình cảm thiết tha sâu lắng được gửi gắm qua những vần thơ mộc mạc giản dị . * Luận điểm 2: Cảm xúc trước dòng người vào lăng viếng Bác (khổ 2) + Luận cứ 1: Hình ảnh mặt trời : Mặt trời trên lăng của thiên nhiên vũ trụ. - Mặt trời trong lăng (hình ảnh ẩn dụ ) chỉ Bác, Bác là nguồn sống, nguồn sáng, là chân lí luôn trường tồn vĩnh cữu, đem lại ánh sáng và hạnh phúc cho nhân dân. Bác thật vĩ đại . -> Niềm thành kính của tác giả, của nhân dân Miền nam với Bác . - “Ngày ngày” -> điệp từ -> quy luật tuần hoàn, liên tiếp bất tận của thiên nhiên và dòng người => Nhịp thơ chậm rãi, sâu lắng như bước chân dòng người lặng lẽ đi trong thương nhớ đến thăm bác. + Luận cứ 2: Hình ảnh “dòng người”,“tràng hoa”-> hình ảnh thực. -> Biện pháp ẩn dụ - tình cảm chân thành của tác giả, của nhân dân Miền Nam với bác kết thành đóa hoa ngát hương thành chuỗi n
Tài liệu đính kèm: