THƯƠNG VỢ - TRẦN TẾ XƯƠNG I . TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 1.Những nét chính về tác giả. -Trần Tế Xương ( 1870 – 1907 ) thường gọi là Tú Xương . -Quê : Làng Vị Xuyên – Mỹ Lộc – Nam Định -Cuộc đời : nghèo khó, lận đận trên con đường khoa cử , đi thi nhiều lần không đỗ đạt , chỉ đỗ tú tài ( 8 lần thi chỉ đỗ tú tài ) -Là người thông minh , tình tình phóng khoáng . -Sáng tác thơ chữ Hán, Nôm , câu đối, văn tế, thơ. 2.Một vài nét chính về bài thơ. -Tú Xương có hẳn 1 đề tài về người vợ - bà Tú. Ông thể hiện tình yêu thương, sự biết ơn của mình với vợ . -Bài thơ : Thương vợ : +Thể loại : Thất ngôn bát cú Đường luật +Bố cục : +) 4 phần (Đ,T,L,K) +)2 phần : -Hình ảnh bà Tú ( 6 câu đầu) - Hình ảnh ông Tú ( 2 câu cuối) => Là bài thơ hay , cảm động nhất về bà Tú. II. Luyện đề Đề 1: Cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” I. Phân tích đề -Thể loại văn nghị luận về 1 tác phẩm thơ -Đối tượng : thương vợ -Nội dung : Hình ảnh bà Tú : +Tần tảo , đảm đang ,tháo vát / +Gian truân, vất vả sớm khuya/ +Giàu đức hi sinh , yêu thương chồng con => Đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam. II. Dàn ý chi tiết A.Mở bài: -Trong VHTĐ thơ viết về người phụ nữ rất ít và đặc biệt thơ viết về người vợ càng hiếm nên có thể coi Tú Xương là 1 hiện tượng lạ bởi ông không những viết về vợ với số lượng bài nhiều mà còn viết rất hay, thậm chí còn làm văn tế sống vợ . -Bài thơ “Thương vợ” thuộc mảng thơ trữ tình là một trong những bài tiêu biểu viết về bà Tú với tấm lòng tri ân sâu sắc đồng thời cho ra thấy vẻ đẹp cao cả trong nhân cách của Tú Xương. B.Thân bài 1,Khái quát (giới thiệu về bà Tú ) Bà Tú là cách gọi tên theo tên chồng, bởi bà tên thật là Phạm Thị Mẫn xuất thân trong 1 gia đình khá giả nhưng đã chấp nhận làm vợ Tú Xương – 1 con người có tài văn chương nhưng không may mắn trên con đường khoa cử . Tú Xương đã cho ta thấy toát lên một tấm lòng biết ơn vợ thể hiện qua những vần thơ, đó là niềm an ủi với bà Tú . 2.Phân tích a, Nỗi vất vả gian truân của bà Tú . *2 câu đề Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu công việc làm ăn và gánh nặng của bà Tú : “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng” -Từ “quanh năm” gợi ra thời gian liên tiếp kéo dài hết ngày này qua ngày khác, hết năm này qua năm khác giúp cho chúng ta thấy được sự vất vả khó nhọc của bà Tú là liên tục và triền miên . Nơi làm việc của bà là ở “mom sông” – phần đất nhô ra phía lòng sông gợi cho ta thấy một địa điểm làm ăn chênh vênh không vững chắc chỉ mang tính chất tạm thời : đó là sự không ổn định của công việc . -Mặc dù phải đối mặt với những nguy hiểm và công việc chỉ con con là “buôn bán” nhưng bà Tú vẫn phải vượt qua bởi có gánh nặng gia đình là phải “Nuôi 1 chồng” .Câu thơ cho thấy sự vất vả của bà Tú khi phải gánh trên vai cả gia đình, vậy mà vẫn “nuôi đủ” đảm bảo đầy đủ cả về số lượng và chất lượng nghĩa là được ăn no, mặc ấm, được học hành . Câu thơ tách làm đôi với hiện từ “với” đặt ở giữa, việc sử dụng từ “với” chứ không dùng từ “và, cùng” bởi thanh trắc ở từ với ghép giúp người đọc hình dung trên đôi vai của bà Tú là (đôi quang gánh) chiếc đòn gánh , ở hai đầu là chồng và 1 bên là 5 đứa con .Đôi quang gánh ấy dường như trĩu hẳn về phía người chồng bởi bài thơ tách mình ra một bên có dụng ý coi mình như 1 đứa con đặc biệt mà người vợ phải nuôi và thậm chí còn khó nuôi hơn cả 5 con =>Đó chính là sự biết ơn và tự cười mình vô dụng bởi vì ông cũng từng viết : “Bốn con làm lính bố làm quan Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ” * 2 câu thực -Hình ảnh bà Tú hiện lên tần tảo, đảm đang, tháo vát ở 2 câu thơ thực : “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” -Sử dụng hình ảnh “thân cò” kết hợp với từ láy “lặn lội” đảo lên đầu câu gợi ra thân phận của bà Tú lẻ loi, đơn chiếc 1 mình không kể nắng mưa sớm tối .Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh con cò trong ca dao để đồng nhất với thân phận người vợ : “Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” Hay “Con cò mày đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” “Thân cò” ấy phải làm việc vất vả nơi ruộng đồng, sông nước “khi quãng vắng” vừa gợi lên thời gian làm việc từ sáng sớm , vừa gợi lên 1 không gian heo hút vắng người đầy những nguy hiểm rình râp . -Không khí của cảnh làm ăn nơi bà Tú kiếm sống rất phức tạp bởi những tiếng “eo sèo” đó là những tiếng kì kèo mặc cả , cãi lộn lẫn nhau .Đã vậy, đó còn là chốn đông người “buổi đò đông” gợi ra nhiều cách hiểu : có thể là nhiều đò trên một khúc sông hay nhiều người trên 1 con đò .Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta vẫn thấy sự chật hẹp, tù túng với 1 bầu không khí khó chịu . Vậy mà bà Tú vẫn phải vượt qua một cách cần mẫn, nhẫn lại để nuôi chồng, nuôi con mà không hề kêu than . =>Hai câu thơ thực đối nhau về từ ngữ : khi quãng vắng với buổi đò đông – một bên là lẻ loi 1 mình còn 1 bên là chốn đông người . Nhưng ở đây lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả, gian truân của bà Tú : đã vất vả đơn chiếc 1 mình lại thêm sự bươn bả trong cảnh làm ăn chen chúc, xô đẩy . b, Đức tính cao đẹp * 2 câu luận -Bà Tú với đức tính cao đẹp đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con hơn thế bà còn là người phụ nữ giàu đức hi sinh, điều này thể hiện qua 2 câu luận : “Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công” -Nhà thơ bàn luận về vấn đề duyên nợ giữa 2 vợ chồng : duyên thì có 1 mà nợ thì 2.Nghĩa là niềm vui , sự hãnh diện của bà Tú có chồng là Tú Xương thì ít mà cái nợ bà phải gánh lại nhiều .Nhưng bà không 1 lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng con và coi đó là việc trời định , sẵn sàng chấp nhận . -Nhà thơ sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian “1 nắng 2 sương” thành “5 nắng 10 mưa” – 5,10 là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, tức là bà Tú rất vất vả khó nhọc trong công việc buôn bán hàng ngày không tiếc công sức hi sinh vì chồng , vì con. -Sử dụng những thành ngữ với số từ 1,2,5,10 có sự tăng tiến dần muốn nói lên gánh nặng ngày càng đè lên vai bà bởi các con ngày 1 lơn, sức khỏe của bà lại giảm sút còn công việc thì khó khăn . Vậy mà bà vẫn chịu khó hết lòng vì gia đình mà không hề kể công . * Tiểu kết 1. Nghệ thuật – Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm, vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ trong văn học dân gian và trong đời sống hàng ngày. – Kết hợp nhuần nhuyễn giữa 2 yếu tố: Trữ tình và trào phúng. Tiếng cười trong bài thơ là tiếng cười xót xa, nghẹn ngào. 2. Nội dung Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh bà Tú tần tảo, vất vả nhưng đảm đang, giàu đức hi sinh. Đó là vẻ đẹp truyền thống của người mẹ, người vợ Việt Nam. Qua đó, Tú Xương đã bộc lộ tình yêu thương, lòng biết ơn vợ ,tri ân vợ và nhân cách cao đẹp của mình. Tình cảm đó là chiều sâu nhân bản của bài thơ C .Kết bài -Bài thơ sử dụng các từ láy , thành ngữ dân gian kết hợp với những từ thuần việt, biện pháp đảo từ (ngôn ngữ suồng sã, dung dị, biểu cảm) - Ta thấy được hình ảnh của một người phụ nữ đảm đang, tháo vát luôn vì chồng con. Đồng thời thấy được tình yêu thương, sự biết ơn người vợ của nhà thơ. Đề 2: Hình ảnh ông Tú qua bài thơ “TV” Gợi ý a. Tình yêu thương, quý trọng vợ, tri ân vợ - Thương vợ vì phải nuôi cả gia đình, nhà thơ đếm luôn mình vào 5 đứa con và coi mình như 1 đứa con thơ dại mà vợ phải nuôi - TX nhập thân vào vợ để nói lên nỗi vất vả của bà Tú, nói lên tấm lòng xót xa với người vợ tần tảo b. Con người có nhân cách qua lời tự trách - Ông Tú không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm, ông tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú phải gánh - Ông chửi đời vì ăn ở bạc bẽo, thói đời bạc, lễ giao phong kiến bất công bắt người con trai phải có công danh sự nghiệp, phải đi thi đỗ đạt làm quan, còn người vợ thì phải lo việc nhà - Ông chửi mình, tự coi m là ng vô tích sự, ăn lương vợ, để vợ nuôi - Sự “hờ hững” của ông với vợ cũng là biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Đó là lời rủa mát, tự phán xét, tự lên án. Ông đã nhận ra sự thiếu xót, tự nhận khiếm khuyết cho thấy ông là một con người có nhân cách cao đẹp => Tiếng chửi đời, chửi mình khiến cho phẩm cách của TX được nâng cao hơn. Đó là người đàn ông tài hoa, trung thực, rất thương vợ, rất ân hận vì không làm được gì cho vợ con. Kiến thức cơ bản về bài Thương Vợ 1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm: Tú Xương là nhà thơ độc đáo của nền văn học trung đại cuối thế kỉ XIX. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân nhưng ông đã để lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Sáng tác của ông có hai mảng lớn song hành với nhau : trào phúng và trữ tình. Ở mảng thơ trữ tình, ông có hẳn một đề tài viết về người vợ của mình với tấm lòng yêu thương, trân trọng, biết ơn, trong đó có bài thơ “Thương vợ”. Đây là bài thơ hay và cảm động nhất viết về vợ của ông Tú. 2. Khái quát về bài thơ: Có thể xem “Thương vợ” là lời tri ân sâu sắc của ông Tú dành gửi tới vợ. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần : đề, thực, luận, kết. Bài thơ vẽ nên bức chân dung bà Tú chịu thương chịu khó, tần tảo, đảm đang, thương chồng thương con và giàu đức hi sinh; đồng thời thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng vợ và nhân cách cao cả của ông Tú. 3. Tóm tắt nội dung và nghệ thuật bài Thương Vợ Hai câu đề : Nghệ thuật : ngôn ngữ đời thường giản dị; từ ngữ chọn lọc (quanh năm, mom sông, nuôi đủ), sử dụng số đếm (năm con, một chồng). Nội dung : Lời kể về công việc làm ăn và gánh nặng gia đình mà bà Tú phải đảm đương thể hiện sự tri ân của ông Tú với vợ. Hai câu thực: Nghệ thuật : Phép đối, phép đảo, từ láy gợi hình gợi cảm, vận dụng sáng tạo thi liệu dân gian (“thân cò”). Nội dung : Đặc tả cảnh làm ăn vất vả để mưu sinh của bà Tú, cho thấy nỗi cảm thông sâu sắc trước sự tảo tần của người vợ. Hai câu luận : Nghệ thuật : phép đối, vận dụng thi liệu dân gian (thành ngữ); giọng thơ mang âm hưởng dằn vặt, vật vã. Nội dung : Bình luận về cảnh đời oái oăm mà bà Tú phải gánh chịu, cho thấy ông Tú thấu hiểu tâm tư của vợ, thương vợ sâu sắc. Hai câu kết : Nghệ thuật : sử dụng khẩu ngữ; lời thơ giản dị, tự nhiên. Nội dung : tiếng chửi – tự chửi mình và chửi thói đời đen bạc; bộc lộ nhân cách đáng trọng của ông Tú. Nghệ thuật cả bài thơ : Vận dụng sáng tạo ngôn ngữ và thi liệu văn hóa dân gian. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng. Ý nghĩa văn bản: Chân dung người vợ trong cảm xúc yêu thương cùng tiếng cười tự trào và một cách nhìn về thân phận người phụ nữ của Tú Xương. 4. Một số đề luyện tập bài Thương Vợ Dựa vào kiến thức cơ bản và phương pháp làm bài nghị luận văn học về bài thơ, đoạn thơ, học sinh luyện tập với các đề sau: Đề 1. Phân tích bài thơ “Thương vợ” của nhà thơ Trần Tế Xương. Đề 2. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam qua hình tượng người vợ trong bài thơ “Thương vợ” của nhà thơ Trần Tế Xương. Bài văn mẫu phân tích Thương Vợ- Trần Tế Xương Tú Xương là nhà thơ độc đáo của nền văn học trung đại cuối thế kỉ XIX. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân nhưng ông đã để lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Sáng tác của ông có hai mảng lớn song hành với nhau : trào phúng và trữ tình. Ở mảng thơ trữ tình, ông có hẳn một đề tài viết về người vợ của mình với tấm lòng yêu thương, trân trọng, biết ơn, trong đó có bài thơ “Thương vợ”. Đây là bài thơ hay và cảm động nhất viết về vợ của ông Tú: “Ghi nguyên văn bài thơ” Có thể xem “Thương vợ” là lời tri ân sâu sắc của ông Tú dành gửi tới vợ. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ vẽ nên bức chân dung bà Tú chịu thương chịu khó, tần tảo, đảm đang, thương chồng thương con và giàu đức hi sinh; đồng thời thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng vợ và nhân cách cao cả của ông Tú. Ngay đầu bài thơ, hình ảnh bà Tú đã hiện ra : “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”. Câu đầu nói về thời gian và không gian làm việc của bà Tú. Bà phải làm việc vất vả “quanh năm”, suốt bốn mùa không ngơi nghỉ, cứ hết ngày này sang ngày khác, hết năm này qua năm khác, không kể nắng mưa. Bà làm việc vất vả quanh năm suốt tháng như thế ở “mom sông”, nơi có mỏm đất nhô ra ven bờ sông chênh vênh, nguy hiểm. Bà phải cật lực buôn bán ở một nơi nguy hiểm như thế để đảm bảo kinh tế gia đình, “nuôi đủ” chồng và con. Câu hai cho thấy gánh nặng gia đình trên vai bà Tú. Đặc biệt, cách nói về gánh nặng gia đình mà bà Tú phải đảm nhiệm thật độc đáo : “năm con với một chồng”. Dường như, ông Tú đang tự đặt mình lên bàn cân và thấy một mình ông “nặng” bằng năm đứa con. Bà Tú phải nuôi ông bằng nuôi thêm năm đứa con nữa. Cách nói ấy gợi ra nụ cười mỉa mai chính mình của ông Tú: hóa ra, mình cũng chỉ là một thứ con cần phải nuôi. Nhận ra mình là một gánh nặng trên đôi vai gầy của vợ cho thấy ông Tú hết sức biết ơn người vợ tần tảo của mình. Hai câu thơ đầu, bằng việc khắc họa thời gian, không gian làm việc của bà Tú và cách đếm con đếm chồng tếu táo của ông Tú, tác giả đã vẽ ra bức chân dung bà Tú tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó và cho thấy tấm lòng tri ân vợ của nhà thơ. Hai câu tiếp theo tiếp tục khắc họa hình ảnh bà Tú : “Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Hai câu thơ có cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ lên đầu câu, nhấn mạnh hai từ láy gợi hình. Bà Tú phải “lặn lội” sớm hôm, chạy vạy ngược xuôi “khi quãng vắng”. Công việc khiến bà Tú phải thức dậy đi làm từ khi mọi người vẫn đang còn ngủ và trở về nhà khi mọi người đều đã sum họp bên gia đình, khi bên ngoài đường đều là những “quãng vắng” có phần nguy hiểm với một người phụ nữ. Câu thơ đầu sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca dao Việt Nam là “con cò”. Trong ca dao, hình ảnh con cò thường tượng trưng cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ lam lũ, nghèo khổ, bất hạnh. Cách sáng tạo hình ảnh “con cò” thành “thân cò” để chỉ bà Tú vừa cho thấy sự lam lũ, vất vả, cực nhọc đến tội nghiệp, đáng thương của bà Tú, vừa cho thấy tình thương mà ông Tú dành cho bà. Chẳng những phải vất vả thức khuya dậy sớm mà bà Tú còn phải chịu những khó khăn chồng chất trong công việc buôn bán. Khi chợ đã đông, đã lắm kẻ bán người mua, bà không tránh khỏi phải chịu những điều tiếng kêu ca, phàn nàn “eo sèo” của khách hàng. Cả hai câu thơ, với việc sử dụng phép đối, phép đảo và những từ láy gợi hình cùng với hình ảnh ẩn dụ quen thuộc, nhà thơ đã khắc họa những vất vả, khổ cực của bà Tú, từ đó gợi ra hình ảnh một người vợ lam lũ, chịu thương chịu khó vì chồng con. Qua đó cũng cho thấy sự thấu hiểu, tình yêu thương của ông Tú với người vợ tảo tần. Hai câu luận vẫn là hình ảnh bà Tú : “Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công”. Hai câu thơ mà có đến hai thành ngữ để nói về bà Tú. “Một duyên hai nợ” là thành ngữ cho thấy nỗi vất vả của bà: chỉ có một cái “duyên” may mắn với ông Tú mà bà lại chịu đến “hai nợ”, hai gánh nặng là chồng và con. Nhưng bà không hề kêu ca, phàn nàn, không than trời kêu đất mà vui vẻ chấp nhận như đó là số phận của mình, “âu đành phận”. Nỗi vất vả và đức hi sinh của bà Tú không chỉ có thế. Dù phải “năm nắng mười mưa”, đi trưa về tối thì bà vẫn “dám quản công”, bà không kể công lao, không quản ngại gian khó. Bà chịu đựng hi sinh tất cả để lo cho gia đình, bà không nghĩ gì cho riêng bản thân mình. Hai câu luận này, bằng phép đối và vận dụng sáng tạo thành ngữ, nhà thơ đã hoàn thành nốt bức chân dung về phẩm cách cao quý của bà Tú : lòng yêu thương chồng con và đức hi sinh cao cả. Ở hai câu thơ này, giọng thơ chùng xuống mang âm hưởng dằn vặt, vật vã, gợi ra một tiếng thở dài nặng nề, chua chát của một ông chồng cảm thấy mình vô dụng, phải để vợ một mình gồng gánh việc gia đình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng yêu thương vợ rất mực của Tú Xương. Nếu như sáu câu đầu là bức chân dung bà Tú: tần tảo, lam lũ, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha được vẽ bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng vợ hết mực của ông Tú thì đến hai câu cuối, ông đã mượn lời bà Tú để cất lên tiếng chửi : “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không”. Câu trên, ông sử dụng khẩu ngữ “cha mẹ” để chửi “thói đời” làm bà Tú khổ. “Thói đời” ấy là cái “thói” phổ biến trong xã hội phong kiến cũ: chồng là nhà nho thì chỉ biết ăn, học, lều chõng thi cử, còn vợ lại một mình lo kinh tế gia đình, chèo chống giang sơn nhà chồng. Chửi thói đời đen bạc chưa hả, ông quay sang chửi chính mình là “chồng hờ hững”, là ông chồng vô tích sự, không làm gì được cho vợ đỡ khổ, lại còn “ăn bám” vợ. có lẽ tự giận mình quá nên ông Tú đã quá lời chửi mình là đồ “chồng hờ hững” chứ thực ra, một người phát hiện ra, biết trân trọng và hết lời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của vợ, còn tự nhận ra thiếu sót của mình mà tự lên án mình gay gắt như thế thì cũng không phải đến nỗi là “hờ hững”. Là một nhà Nho với tính tự trọng cao và đặc biệt là sống trong xã hội mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, vậy mà ông vẫn tỏ ra rất kính trọng người vợ của mình, chẳng những thế còn tự nhận khuyết điểm của mình một cách chân thành, tự chửi mình chứng tỏ ông Tú là con người có nhân cách đáng trọng. hai câu thơ cuối bài với ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, vận dụng khẩu ngữ đời thường, tác giả bộc lộ sự xót xa vì cảnh làm chồng mà để vợ phải nuôi, trở thành gánh nặng cho vợ; đồng thời cũng thể hiện nhân cách cao đẹp của ông Tú. Trong văn học trung đại Việt Nam, không thiếu những bài thơ viết về vợ nhưng chỉ mỗi Tú Xương nhận ra được vẻ đẹp tâm hồn của người vợ ngay trong cuộc sống đời thường và viết về bà ngay khi bà còn sống. có thể nói rằng, tuy có vất vả, cực khổ nhưng được chồng trân trọng, yêu thương, ngợi ca như thế thì bà Tú cũng mát lòng mát dạ mà hãnh diện với cuộc đời. Cả bài thơ, với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ và thi liệu văn hóa dân gian cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình, Tú Xương đã gửi đến người đọc một cách nhìn tiến bộ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. “Thương vợ” là bài thơ viết về vợ hay và cảm động nhất của Tú Xương. Bài thơ đã vẽ nên bức chân dung bà Tú mang những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam : tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha. Qua đó cũng cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng vợ rất mực và nhân cách cao cả của Tú Xương. Đọc xong bài thơ, không ai lại không cảm mến bà Tú và cảm động trước tình cảm chân thành mà ông Tú dành cho vợ. Và chắc rằng, bà vợ nào cũng sẵn sàng chịu đựng vất vả khó nhọc mà vẫn luôn vui vẻ nếu có được ông chồng biết yêu thương, trân trọng vợ như ông Tú. Cách nhìn về thân phận người phụ nữ khiến người đọc nhìn lại, ngẫm về người vợ, người mẹ của mình và thấy yêu thương, trân trọng, biết ơn họ.
Tài liệu đính kèm: