ÔN TẬP: CÂU CÁ MÙA THU (THU ĐIẾU) – NGUYỄN KHUYẾN I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Tiểu sử - Nguyễn Khuyến (1835-1909) hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng. - Sinh ra tại quê ngoại - xã Hoàng Xá (nay là xã Yên Trung), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. - Lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội - làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. - Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. - Năm 1864, ông đỗ đầu kì thi Hương. Mấy kì sau thi tiếp lại trượt, đến năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình=> Do đỗ đầu cả ba kì thi nên Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ - Tuy đỗ đạt cao nhưng ông chỉ làm quan hơn mười năm, còn phần lớn cuộc đời là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà. - Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp. 2. Sự nghiệp văn học a. Tác phẩm chính - Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ. - Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng. - Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. - Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. - Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. => Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. - Nội dung: thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước. b. Tầm ảnh hưởng của tác giả - Đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến cho nền văn học dân tộc là mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng. 3. Bài thơ a. Xuất xứ , hoàn cảnh sáng tác - Câu cá mùa thu nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. - Được viết trong thời gian khi Nguyễn Khuyến về ở ẩn tại quê nhà. b. Bố cục - Cách chia 1: + Hai câu đề: Quang cảnh mùa thu + Hai câu thực: Những chuyển động nhẹ nhàng của mùa thu + Hai câu luận: Bầu trời và không gian làng quê + Hai câu kết: Tâm trạng của nhà thơ - Cách chia 2: + Phần 1 (6 câu thơ đầu): Cảnh mùa thu ở vùng quê Bắc bộ + Phần 2 (2 câu thơ cuối): Tâm trạng của nhà thơ 4. Tìm hiểu chi tiết a. Cảnh mùa thu ở vùng quê Bắc Bộ - Điểm nhìn: Cảnh vật được đón nhận từ gần đến cao rồi từ cao trở lại gần: điểm nhìn cảnh thu là chiếc thuyền câu , nhìn mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với thuyền câu. - Từ điểm nhìn ấy, từ một khung ao hẹp, không gian mùa thu, cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động với những hình ảnh vừa cân đối, hài hòa. - Mở ra một khung cảnh với những cảnh vật hết sức thanh sơ: + ao nhỏ trong veo + thuyền câu bé tẻo teo + sóng biếc gợn + lá vàng khẽ đưa + tầng mây lơ lửng + ngõ trúc quanh co + sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước => Tất cả tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động. Những đường nét, màu sắc... gợi lên trong tưởng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian... Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã. Khung cảnh ấy vận thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành. - Cảnh sắc mùa thu đẹp nhưng đượm buồn + Không gian tĩnh lặng, phảng phất buồn: vắng teo, trong veo, khẽ đưa vèo, hơi gợn tí, mây lơ lửng , + Đặc biệt câu thơ cuối tạo được một tiếng động duy nhất: “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” -> không phá vỡ cái tĩnh lặng, mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật -> Thủ pháp lấy động tả tĩnh. => Cảnh sắc thu đẹp nhưng tĩnh lặng vắng bóng người, vắng cả âm thanh dù đó là sự chuyển động nhưng đó là sự chuyển động rất khẽ khàng và cả tiếng cá đớp mồi cũng không làm không gian xao động. b. Tình thu - Nói chuyện câu cá nhưng thực ra là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng: + Một tâm thế nhàn: Tựa gối ôm cần + Một sự chờ đợi: Lâu chẳng được. + Một cái chợt tỉnh mơ hồ: Cá đâu đớp động.. - Không gian thu tĩnh lặng như sự tĩnh lặng trong tâm hồn nhà thơ, khiến ta cảm nhận về một nỗi cô đơn, man mác buồn, uẩn khúc trong cõi lòng thi nhân. -> Nguyễn khuyến có một tâm hồn hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín mà sâu sắc. c. Giá trị nội dung Bài thơ thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của tác giả. d. Giá trị nghệ thuật - Cách gieo vần đặc biệt: Vần “eo” (tử vận) khó làm, được tác giả sử dụng một cách thần tình, độc đáo, góp phần diễn tả một không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, khép kín, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ. - Lấy động tả tĩnh- nghệ thuật thơ cổ phương Đông. - Vận dụng tài tình nghệ thuật đối. Một số nhận định về tác giả, tác phẩm 1. “Cuộc đời và văn chương Nguyễn Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn quê. Ông được coi là “nhà thơ quê hương làng cảnh Việt Nam”. ( Nguyễn Phong Nam ) 2. “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam.” ( Nguyễn Huệ Chi ) 3. “Thơ Yên Đỗ vẫn phảng phất bay lượn giữa quê hương đồng chiêm trũng Hà Nam, trên quê hương làng mạc Việt Nam tất cả; bởi Nguyễn Khuyến đã tạo nên một tình yêu quê hương làng mạc trong văn học, tình yêu đồng bào, bà con dân quê trong xóm mình.” ( Xuân Diệu ) 4. “Nguyễn Khuyễn sống đời sống của người nông dân quê ông và ông viết về cuộc đời họ, cảnh đời họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần nghìn ngàn năm của văn học dân tộc Việt Nam đời sống nghèo khó của người nông dân với những cảnh sinh hoạt bình thường ở thôn quê trờ thành đối tượng phản ánh của thơ ca.” ( Vũ Thanh ) II. LUYỆN ĐỀ ĐỀ 1: Phân tích “Câu cá mùa thu”- Nguyễn Khuyến A. MỞ BÀI - Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam". "Thu điếu" là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. - "Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến. B. THÂN BÀI 1. Khái quát - Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca, thơ viết về mùa thu của văn học trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những đường nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy. - Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, gần suốt đời mình ông gắn bó với thôn quê hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên cảnh vật làng quê trong thơ Ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc “Thu điếu” ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ - quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học trung đại Việt Nam. - “Thu điếu” viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, cảnh thu được miêu tả trong hầu hết tám câu thơ thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu thơ cuối. Cảnh trong bài vẫn là trời, nước, gió, trúc những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển. 2. Phân tích a. Hai câu đề Mở đầu bài thơ, người đọc đã thấy không gian quen thuộc của một buổi câu cá "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo". - Hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả là “ao thu”. Từ “lạnh lẽo” đặc tả khí thu - lạnh của áo thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước đồng thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của chiếc ao. - Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé nhỏ. Số từ chỉ số ít – “một” chiếc kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu và trong tận đáy. - Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng biệt, mộc mạc, đơn sơ của mùa thu Bắc Bộ với những nét đặc trưng nhất của khí thu, chất thu là cái lạnh và sự tĩnh lặng. - Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo": b. Hai câu thực Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoa làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu: "Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo". - Mùa thu hiện lên với hình ảnh sóng biếc, lá vàng, cảnh vận động một cách khẽ khàng. Tác giả rất nhạy cảm tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật đó là sự chuyển động hơi gợn tí của sóng là sự khẽ đưa nhẹ khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. - Hai câu đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ: “biếc, tí, vàng, vèo” được sử dụng một cách hợp lý, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển sinh động của tạo vật. - Cảnh được miêu tả trong hai câu thực mặc dù là động nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động tả tĩnh, tả cái tĩnh lặng của mùa thu trong không gian của một chiếc áo quê. - Hình ảnh thu có sóng biếc, có lá vàng. Cũng như các nhà thơ khác mùa thu gắn liền với lá vàng: Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô? (Tiếng thu – Lưu Trọng Lư) thế nhưng Nguyễn Khuyến khác hẳn họ ở chỗ màu vàng lá thu trong câu thơ của ông chỉ điểm xuyết ít ỏi, chỉ len lỏi giữa màu xanh của làn nước, bầu trời, ngõ trúc. Ông không lấy màu vàng là màu sắc chủ đạo và màu vàng trong câu thơ cũng không gợi ra sự héo úa, chết chóc. Nó đơn thuần là màu vàng đặc trưng của mùa thu. Xuân Diệu đã từng phát hiện ra điều này: Cái thú vị của bài “Thu điếu” là ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi. Đọc hai câu này, người đọc không thể không chú ý vào chữ “vèo”. Thu đến những chiếc lá đã bắt đầu rơi khỏi cành mà không còn lưu luyến. Chỉ sau một làn gió nhẹ, chiếc lá vàng đã nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao. Không biết sau này, Tản Đà có ảnh hưởng của Nguyễn Khuyến hay không mà ông cũng viết: “Vèo trông lá rụng đầy sân” và từng tâm sự rằng cả một đời thơ, ông chỉ vừa ý câu thơ ấy. c. Hai câu luận Đến hai câu thơ luận, không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với: "Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng" Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh cotất cả đều thân thương và nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. - Không gian của cảnh vật mở rộng thêm chiều cao, chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và độ thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như có ám ảnh sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên các bài thơ thu, ông thường nhắc tới “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh) Hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm) Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn giản là một sắc màu khách quan đặc trưng của trời thu mà có lẽ còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. - Chiều sâu của không gian được cụ thể bằng độ “quanh co” uốn lượn của bờ trúc. Không gian trong hai câu luận đậm đặc một màu xanh, màu xanh bao trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật êm đềm thoáng một nỗi buồn cô tịch, hắt hiu. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng mà “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vật vắng tanh, vắng ngắt không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng người. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người. d. Hai câu kết Cái ý vị của bài là ở hai câu kết: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo.” - "Tựa gối ôm cần" là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh"cá đâu đớp động", nhất là từ "đâu" gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh bạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hổn nhà thơ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi"Cá đâu đớp động dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy — buồn cô đơn và trống vắng. - Âm thanh tiếng cá"đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu"xanh ngắt" của bầu trời thu, ở làn "sóng biếc" trên mặt ao thu "lạnh lẽo"... - Thật vậy, "Thu điếu" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa"vèo" trong làn gió thu, tiếng cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước. C. KẾT BÀI - Với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu họa của bức tranh phong cảnh đồng thời với việc vận dụng tài tình nghệ thuật đối, tả cảnh ngụ tình, gieo vẫn Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu trong trẻo thanh sơ, tĩnh lặng và đượm nỗi buồn man mác từ cõi lòng khi nhân. - “Thu điếu” thực sự là bài thơ “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Qua bài thơ, ta hiểu được tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng thời thế của tác giả. ĐỀ 2: CẢNH THU VÀ TÌNH THU TRONG “THU ĐIẾU” A. THẦN THÁI RIÊNG CỦA MÙA THU NÔNG THÔN BẮC BỘ – Cảnh thu vừa trong vừa tình. Ao nước trong tưởng có thể nhìn thấu đáy (trong veo), sóng biêng biếc phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên càng nổi bật màu xanh ngắt (xanh ở đây cũng có thể hiểu là trong). Tĩnh: mặt ao lặng, lạnh lẽo (cái lạnh) thường hay sóng đôi với cái lặng, sóng hơi gợn (gợn tí), gió khẽ đưa lá vàng, khách vắng teo, tiếng cá đớp bỗng nghe mơ hồ như có như không (cái động của liêng cá đớp bỗng càng làm nổi bật cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh. – Đây là cảnh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, ở xứ đồng chiêm trũng. Các chi tiết miêu tả trong bài đều giàu tính hiện thực, hầu như không vướng chút ước lệ nào, có thể gợi những cảm xúc sâu lắng về quê hương. – Dưới ngòi bút cua tác giả, tất cả các sự vật được nhắc tới đều xứng hợp với nhau: ao thu nhỏ – thuyền câu bé, gió nhẹ – sóng gợn tí, trời xanh — nước trong, khách vắng teo – người ngồi câu trầm ngâm yên lặng, đặc biệt là các mảng màu xanh của nước, của tre trúc thật hoa diệu với màu xanh của bầu trời. – Từ láy trong thơ chẳng những tạo ra vẻ thuân Nôm cho tác phẩm mà còn có tác dụng làm tăng nhạc tính. Từ láy vừa mô phỏng dáng dấp, động thái của sự vật, làm cho sự vật hiện lên sống động, vừa thể hiện được biến đổi tinh vi trong cảm xúc chủ quan của người sáng tạo: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng. Lạnh lẽo không hẳn nói về cái lạnh của nước mà nói về không khí đượm vẻ hiu hắt của cảnh vật cũng như tâm trạng u uẩn của nhà thơ. Tẻo teo có thể được giải thích là rất nhỏ (chiếc thuyền câu nhỏ), âm eo được lặp lại gợi liên tưởng về một “đối tượng” đang mỗi lúc một thu hẹp diện tích, phù hợp với cái nhìn của nhà thơ muốn mọi vật thu lại vừa trong tầm mắt, không mở ra quá rộng làm cho không khí suy tư bị loãng đi. Lơ lửng vừa gợi hình ảnh đám mây đọng lại lưng chừng giữa tầng không, vừa gợi trạng thái mơ màng của nhà thơ. B. KHÔNG GIAN TRONG THU ĐIẾU - Cảnh trong Thu điếu là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Không gian Thu điếu là một không gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Các chuyển động rất nhẹ, rất khẽ không đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa. “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo.” - Cá đâu đớp động duới chân bèo không thể hiểu theo nghĩa cá đâu có đớp (nghĩa là không đớp). Từ đâu trong câu này là đại từ phiếm chỉ chứ không phải là hư từ phủ định. Một tiếng động duy nhất – tiêng cá đớp mồi càng làm tăng thêm sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ một cái “động” rất nhỏ. Đây là nghệ thuật lấy “động” nói “tĩnh”, một thủ pháp nghệ thuật gợi tả quen thuộc của thơ cổ điển. C. TÂM TÌNH NHÀ THƠ - Nói câu cá nhưng thực ra không phải chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thực ra là đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. Tĩnh lặng trong sự cảm nhận độ trong veo của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi khe khẽ của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm đến thế, vì tâm cảnh đang trong sự tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng đem đến sự cảm nhận về một nỗi cô quạnh, u uẩn trong lòng nhà thơ. - Bài thơ còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả: đó là một con người bình dị, gắn bó sâu sắc với quê hương, biết rung động với những vẻ đẹp đơn sơ của chốn thôn dã thanh bình, hướng về sự thanh sạch cao quý và luôn có tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời. => Nhận xét - Cảm nhân được vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu, tâm hồn thanh cao và niềm ưu tư của nhân vật trữ tình trong bài. - Thấy được sự tinh tế, tài hoa trong cách miêu tả thiên nhiên và biểu lộ tâm trạng của nhà thơ. ĐỀ 3: CẢM NHẬN VẺ ĐẸP TÂM HỒN CỦA NK QUA BÀI “THU ĐIẾU” A. MB Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề nghị luận: + Nguyễn Khuyến là nhà nho tài năng, có cốt cách thanh cao, một trong những đại diện xuất sắc cuối cùng của VHTĐ Viêt Nam. + Câu cá mùa thu là bài thơ đặc sắc trong Chùm thơ thu, đằng sau bức tranh cảnh thu là vẻ đẹp tâm hồn thi nhân. - Nguyễn Khuyến là bậc túc nho tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng lại bất lực trước thời cuộc. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. Nhắc đến ông, không ai lại không nhớ đến chùm thơ thu nức tiếng gồm ba bài, trong đó có “Câu cá mùa thu” (“Thu điếu”). Bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp hồn thơ Nguyễn Khuyến B. TB 1. Khái quát – HCST, Vị trí bài thơ, thể thơ - Giải thích: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến trong bài thơ là tình yêu thiên nhiên gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước và tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao. 2. Phân tích, chứng minh: - Tình yêu thiên nhiên gắn liền với tình yêu quê hương đất nước: + Thơ viết về thiên nhiên trước hết là bộc lộ tình yêu thiên nhiên của tác giả: thiên nhiên được cảm nhận bằng nhiều giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác).Bức tranh thiên nhiên với màu sắc, đường nét, âm thanh đẹp, tĩnh lặng, đượm buồn, điển hình cho cảnh sắc mùa thu làng quê ở đồng bằng Bắc bộ. + Thơ viết về thiên nhiên còn phản ánh tình yêu quê hương, đất nước vì đó là thiên nhiên của quê hương mình, tổ quốc mình: Là người gắn bó sâu sắc và thiết tha với quê hương, Nguyễn Khuyến đã cảm nhận vẻ đẹp riêng của cảnh sắc quê hương, đồng thời thể hiện vẻ đẹp ấy bằng nét bút vừa chân thực, vừa tinh tế. Bức tranh Câu cá mùa thu mang được cái hồn dân tộc, vượt khỏi những công thức, ước lệ không chỉ bởi tài thơ mà còn bởi tình yêu thiên nhiên đất nước của tác giả. - Tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao: + Người đi câu hờ hững với việc câu cá bởi đang nặng lòng trước thế sự. Tâm trạng u hoài bộc lộ qua bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng. Nỗi u hoài từ tâm cảnh lan tỏa ra ngoại cảnh phủ lên cảnh vật vẻ thanh sơ đến hiu hắt. Không gian tĩnh lặng đem đến cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn thi nhân.Tìm đến thú vui câu cá để nhàn thân nhưng tâm không nhàn, không câu cá mà “câu thanh, câu vắng” bởi nặng lòng trước thời thế và vận mệnh đất nước. Đặt Câu cá mùa thu trong chùm thơ thu, với Vịnh mùa thu (Thu vịnh) Uống rượu mùa thu (Thu ẩm) ta càng thấy rõ tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao Nguyễn Khuyến, ở bài Vịnh mùa thu, tác giả sống trong tâm trạng buồn đến thẫn thờ, ngơ ngẩn, mất cả ý niệm không gian, thời gian. Hoa nở năm nay mà ngỡ là hoa năm ngoái. Ngỗng kêu trên trời nước mình mà ngỡ ngỗng nước nào. Buồn đến nhân hứng” muốn viết thơ mà “nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Nguyễn Khuyến thẹn với Đào Tiềm — danh sĩ đời Tấn vừa có tài thơ, vừa có nhân cách. Đào Bành Trạch không vì năm đấu gạo mà uốn gối khom lưng trước thói tục, đã treo ấn từ quan từ hồi còn trẻ. Tam nguyên Yên Đổ cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà, nhưng so với Đào Tiềm ông vẫn tự cho mình là từ quan hơi muộn. Ở bài uống rượu mùa thu, Nguyễn Khuyến nói chuyện uống rượu nhưng thực ra là để đón nhận cảnh thu, để quên đi bao sự đời đau buồn, tủi hổ. Mượn chén rượu để thưởng thức thú ngắm cảnh, ngắm trăng, mượn “say” để nói “tỉnh”. Say thiên nhiên mà tỉnh trước sự đời. Đằng sau cái “say nhè” sau năm ba chén rượu là một tuý ông nặng lòng trước thời thế. => Qua tâm trạng thời thế của ông ta thấy một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.
Tài liệu đính kèm: