Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 11

docx 4 trang Người đăng khanhhuyenbt22 Ngày đăng 20/06/2022 Lượt xem 457Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 11
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
BÀI 1: LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG
(Xuất dương lưu biệt) - PHAN BỘI CHÂU
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Phan Bội Châu
- Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính là Sào Nam, quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Vào những năm cuối thế kỉ XIX, ông là một trong những nhà nho đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước mới. Sau khi đỗ Giải nguyên (1900), ông lập ra Duy tân hội. Theo chủ trương của hội, ông lãnh đạo phong trào Đông du và xuất dương sang Nhật Bản (1905).
- Năm 1925, thực dân Pháp bắt cóc ông ở Thượng Hải (Trung Quốc), đưa về nước, định bí mật thủ tiêu. Nhân dân đấu tranh sôi sục, nhà cầm quyền buộc phải đưa ông ra xử công khai tại Hà Nội. Phan Bội Châu được trắng án, nhưng bị giam lỏng ở Huế cho đến lúc qua đời.
- Không những là nhà yêu nước và cách mạng, Phan Bội Châu còn là nhà văn lớn. Thơ của Phan Bội Châu thể hiện khả năng tư duy nhạy bén và không ngừng đổi mới, tài năng sáng tạo đa dạng, phong phú bằng những vần thơ sục sôi nhiệt huyết của mình. 
2. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
 Vào những năm đầu thế kỉ XX, đối với các nhà yêu nước Việt Nam, hướng về Nhật Bản cũng có nghĩa là hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ. Năm 1905, trước lúc lên đường sang Nhật Bản, ông làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để từ giã bạn bè, đồng chí.
II. VĂN BẢN
LỜI GIỚI THIỆU: Có thể nói Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động cách mạng chống thực dân Pháp. Cuộc đời Phan Bội Châu hoàn toàn hi sinh cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và những thập niên đầu thế kỉ XX. Thơ văn ông là vũ khí tuyên truyền, vận động cách mạng sắc bén, là những lời tâm huyết chứa chan lòng yêu nước. Có thể thấy những điều nói trên qua bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của ông (dẫn lại bài thơ và nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ).
NỘI DUNG CHÍNH
Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng mang tầm vóc lớn lao:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Theo đó, là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc “lạ”, tức là những việc lớn lao, phi thường. Cụ thể, làm trai phải chủ động xoay chuyển trời đất, không để trời đất tự chuyển vần.
Thực ra, từ xa xưa, chí làm trai đã thường được nói đến trong văn học :
 - Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu 
 (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)
 	 - Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
 (Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ).
Tuy nhiên, quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn có được những nét mới mẻ riêng. Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, chí làm trai đó chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước. 
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn. Đó là ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?
Hai câu thơ bộc lộ ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân tích cực: Giữa khoảng trăm năm này cần phải có ta chứ (cần có tớ), chẳng nhẽ ngàn năm sau (sau này) lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Cái tôi này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, tức là đối với vận mệnh hôm nay của đất nước, mà còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muôn đời. Thật là tư thế của con người có chí khí lớn! Tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận. Đó là thái độ quyết liệt của “cái tôi” cá nhân trước tình đất nước và những tín điều xưa cũ :
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Ở con người này, số phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục cùng Tổ quốc. Ở đây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả thế hệ, cả một dân tộc đang chuyển mình theo một lí tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đại mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về tương lai, đầy lạc quan tin tưởng.
Bài thơ kết thúc bằng hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Đó là khát vọng hành động và tư thế buổi lên đường của kẻ “làm trai”:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Đúng là con đại bang cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ, nếu hiểu đúng như nguyên tác, còn lãng mạn và hào hùng hơn nữa: “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”. Con người ở đây như được chắp thêm đôi cánh thiên thần bay lên cùng gió mây. Với các hình ảnh: trường phong, Đông hải khứ, Thiên trùng bạch lãng – nhất tề phicàng làm nổi rõ khát vọng mãnh liệt và tư thế hiên ngang buổi lên đường “xuất dương”.
KẾT LUẬN: Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
BÀI 2: VỘI VÀNG
 XUÂN DIỆU
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Nhà thơ Xuân Diệu
- Xuân Diệu (1916 – 1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, lớn lên ở quê mẹ (Bình Định – Quy Nhơn). Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hăng hái tham gia các hoạt động xã hội với tư cách một nhà viết văn chuyên nghiệp: đại biểu Quốc hội khoá I, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III; Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức.
- Năm 1996, Xuân Diệu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Về phong cách:
+ Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. 
+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
+ Từ sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự.
2. Bài thơ Vội vàng
 Vội vàng được in trong tập Thơ thơ (1938), là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
II. VĂN BẢN
LỜI GIỚI THIỆU: Xuân Diệu nổi tiếng trong làng Thơ mới thời kì 1930 – 1945. Thi sĩ đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một hơi thở mới, luôn trẻ trung, nồng nàn, rạo rực của một trái tim sôi nổi, đa tình. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã viết: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”.
 Bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ thơ (1938), đây là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất phong cách nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu. Một trong những nét tiêu biểu đó có thể kể đến là  
NỘI DUNG CHÍNH
1. Đoạn thơ 1 (13 dòng đầu) – Tình yêu thiết tha của thi sĩ với thiên đường nơi trần thế
Mở đầu bài thơ (đoạn thơ), Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng muốn giữ lại mãi cái thế giới tươi đẹp muôn màu: Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
 Đó là một khát vọng muốn “vĩnh cửu hoá” cái đẹp, để cho thi sĩ tôn thờ, thưởng thức. Ước muốn ấy táo bạo, muốn đoạt quyền của tạo hoá, muốn ngự trị cả thiên nhiên. Tất cả đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống say mê của hồn thơ nồng nàn, tha thiết. Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu “Tôi muốn cho”, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó một cách đầy chất thơ.
 Sở dĩ có khát vọng ngược với quy luật tự nhiên đó, bởi lẽ, dưới con mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ: 
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Của yến anh này đây khúc tình si
 Bức tranh cuộc sống hiện ra có đủ cả hương vị, màu sắc và cả âm thanh, rất sinh động. Đó là những hình ảnh hết sức “cám dỗ”, tạo vật như căng đầy nhựa sống và hiện ra trong thế có đôi có cặp rất hữu tình: tuần tháng mật của các loài ong bướm, “hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ”, khúc nhạc tình si mê của các đôi oanh yến. 
 Điệp ngữ “này đây” được lặp lại bốn lần kết hợp với thủ pháp liệt kê tăng tiến, nhịp thơ gấp gáp cho thấy cảnh đẹp như bày sẵn ra trước mắt, rất cụ thể, rõ ràng đồng thời bộc lộ niềm sung sướng đến ngất ngây của thi sĩ trước cảnh sắc ấy.
 Cũng như trong nhiều bài thơ khác, cảnh vật trong Vội vàng được phát hiện với tất cả niềm háo hức mê say, tất cả sự ngỡ ngàng. Vì tất cả đều trở nên mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham sống:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon ngư một cặp môi gần.
 Với thi sĩ đa tài, đa tình này thì nguồn ánh sáng của mỗi buổi bình minh như phát ra từ đôi mắt xinh đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp hàng mi. Tuy vậy, trong bài thơ Vội vàng, gây ấn tượng mới mẻ nhất chính là câu: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
 Nhà thơ đã so sánh khái niệm thời gian “tháng giêng”, một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể “cặp môi” và truyền cho người đọc một cảm giác thật cụ thể “ngon”, “gần”. Cách so sánh rất lạ! Rất độc đáo! Sau cái phút giây ngất ngây, sung sướng cùng cảnh sắc thiên nhiên ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và tự ý thức được về thời gian:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
 Mùa xuân đẹp làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi ý thức được thời gian (qua đi nhanh) khiến thi sĩ phải “vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân vừa đến, còn tươi non để sau này khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
 Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện một tình yêu thiết tha của thi sĩ Xuân Diệu với “thiên đường nơi trần thế”, đồng thời đã bộc lộ một phong cách thơ rất mới mẻ và táo bạo. 
2. Đoạn thơ 2 (dòng 14 đến 29) – Cảm nhận mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian
 Đúng như ở đoạn trước thi nhân đã tâm sự: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm khéo đặt giữa câu thơ này khiến ta hình dung bước chân của chàng trai tơ Xuân Diệu như bất chợt khựng lại giữa khu vườn ngập tràn xuân sắc. Đó là vì, thi sĩ đã nhận ra quy luật: cuộc đời thì ngắn ngủi, trong khi đó thời gian thì cứ qua đi không trở lại:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
 Thật vậy, trong con mắt của Xuân Diệu, chỉ có thời gian tuyến tính, một kiểu thời gian “một đi không trở lại”. Xuân: tới – qua, non – già, hết. Còn Tôi (đời người): cũng mất, tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, chẳng còn tôi mãi. Bởi vậy, giữa cái non tơ mơn mởn, ông lại thấy được sự hấp hối, lụi tàn cho nên ông đột nhiên thốt lên: “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
 Điểm mới mẻ trong cách thể hiện là nhà thơ đã tạo ra giọng “tranh luận” và nêu lên những “luận lí của trái tim” bằng một loạt các phụ từ quan hệ “nghĩa là – nếu – nên để bảo vệ quan điểm của mình. Hơn nữa, điệp ngữ “nghĩa là” không chỉ bộc lộ ý nghĩa giải thích, định nghĩa cho sự thật hiển nhiên không thể phủ nhận mà còn thể hiện nỗi lo lắng hốt hoảng của thi nhân. Những từ ngữ, cách diễn đạt đối lập mạnh mẽ: non >< chẳng còn đã cho thấy cái hữu hạn của đời người và liền đó là nỗi day dứt, nuối tiếc của thi nhân. 
 Từ sự nhận thức thời gian trôi chảy và lấy tuổi trẻ, khoảng ngắn ngủi nhất của cuộc đời, để đo đếm thời gian đã dẫn đến những cảm nhận tinh tế về thời gian của nhà thơ:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa.
 Như Triết gia nói “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, thi sĩ cảm thấy thời gian như ngọn gió, bay nhanh, lướt qua tất cả. Lúc tạo vật ở độ căng mọng, sung mãn cũng là lúc nó đối diện với sự ám ảnh của sự tàn phai, huỷ diệt của ngọn ngọn gió thời gian ấy. Cho nên, trong cảm nhận của nhà thơ, thời gian có “mùi”, có “vị chia phôi”. Tất cả đều bất ngờ, hẫng hụt, tiếc nuối, thảng thốt đến độ nhà thơ đã cất lên: Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa.
 Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện những cảm nhận mới mẻ và tinh tế của Xuân Diệu về bước đi của thời gian, của tuổi xuân. Tiếc xuân, tiếc thời xuân cũng là tiếc sự sống, tiếc cuộc sống của mình. Đây cũng là một biểu hiện của lòng ham sống, lòng yêu đời của nhà thơ.
3. Đoạn thơ 3 (còn lại): Lời giục giã sống vội vàng, cuống quýt của thi sĩ
 Đoạn thơ cuối này chính là lời giải đáp cho những băn khoăn, những thắc mắc, và trả lời cho câu hỏi: Sống vội vàng là như thế nào ? Phong cách sống “vội vàng” ở đây cũng chính là “hệ quả” của những cảm thức về thời gian từ những đoạn thơ trước của nhà thơ.
 Không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian nên với nhà thơ, cách “chiến thắng” bước đi của thời gian là bằng cường độ sống, khát vọng sống mãnh liệt, là phải chạy đua với thời gian:
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm
 Với Xuân Diệu, chạy đua với thời gian là để tận hưởng. Vì thế ông mới vội vàng giục giã mọi người hãy tận hưởng hết tất cả những vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất, cỏ cây, hoa lá và nhất là của con người. 
 Và đây, lòng ham sống và phong thái vội vàng ấy của thi nhân đã dâng trào lên thành khát vọng:
Ta muốn ôm
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
 Đó là khát vọng tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng tất cả các hành động, bằng tất cả các giác quan, sống mãnh liệt như ngọn lửa thổi bùng bùng. Nhà thơ muốn ôm, muốn riết, muốn thâu cả đất trời, cỏ cây, hoa lá vào trong tay bé nhỏ của mình. Hơn thế nữa, còn “muốn cắn” vào sự sống mơn mởn xanh tươi của xuân hồng đầy sức sống. Qua đó, ta còn thấy nỗi sung sướng và choáng ngợp của thi nhân trước mùa xuân “mơn mởn” trước “thanh sắc của thời tươi”. 
 Ở đây, từ lối vắt câu (Ta muốn ôm) đến nghệ thuật dùng điệp ngữ (Ta muốn; Cho), từ việc sử dụng nhiều hình ảnh táo bạo đều đã góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say của tác giả. Đặc biệt, hàng loạt các động từ có ý nghĩa “mạnh” đã có sức lôi kéo độc giả rất mãnh liệt: “muốn ôm”, “muốn riết”, “muốn thâu” Rồi hàng loạt các tính từ mạnh: “chếnh choáng, đã đầy, no nê” và cuối cùng là động từ “cắn” đều đã bộc lộ rõ nhất cái khao khát mãnh liệt của nhà thơ muốn được sống hết mình, yêu hết mình, hưởng thụ hết mình cái ý nghĩa đẹp đẽ của cuộc sống. 
 Có lẽ, trong đoạn thơ này hình ảnh độc đáo nhất là cách nói: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”! Chưa bao giờ ta thấy “lạ” và Tây đến thế. Đây là hình ảnh không những đã tạo nên sự tương xứng liên kết trong toàn bài thơ mà còn góp phần tạo nên bất ngờ, lột tả hết trạng thái “vội vàng” đến cuống quýt, vồ vập và cuồng nhiệt.
 Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện Xuân Diệu không chỉ sống hay ham sống, mà ông còn say mê, cuồng nhiệt, giục giã, vội vàng, gấp gáp để sống.
KẾT LUẬN: Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Tư tưởng đó được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_cuong_on_tap_mon_ngu_van_11.docx