Báo cáo Kỹ năng dạy học theo nhóm theo mô hình trường học mới cấp tiểu học

doc 13 trang Người đăng phongnguyet00 Lượt xem 691Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Kỹ năng dạy học theo nhóm theo mô hình trường học mới cấp tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo Kỹ năng dạy học theo nhóm theo mô hình trường học mới cấp tiểu học
 PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN XUÂN TRƯỜNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN CHÂU
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
KỸ NĂNG DẠY HỌC THEO NHÓM
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN
CẤP TIỂU HỌC.
 Tác giả: NGUYỄN NGỌC MINH
 Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
 Chức vụ: Giáo viên
 Nơi công tác: Trường Tiểu học Xuân Châu.
Nam Định, ngày 10 tháng 5 năm 2016
1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Cấp trường
 2. Thời gian áp dụng sáng kiến:
 Từ ngày 18 tháng 9 năm 2015 đến ngày 28 tháng 4 năm 2016
 3. Tác giả: 
 Họ và tên: Nguyễn Ngọc Minh
 Năm sinh: 1972
 Nơi thường trú: Xuân Châu – Xuân Trường – Nam Định
 Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học 
 Chức vụ công tác: Giáo viên
 Nơi làm việc: Trường Tiểu học Xuân Châu
 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
 Tên đơn vị: Trường Tiểu học Xuân Châu
 Địa chỉ: Xã Xuân Châu – Huyện Xuân Trường – Tỉnh Nam Định
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: 
 I.1. Lí do chọn đề tài:
 Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, thì giáo dục không ngừng được đổi mới và lần đổi mới này, tôi nghĩ là bước tiến quan trọng trong cải cách giáo dục. Trong dạy học việc truyền thụ được kiến thức giúp cho học sinh lĩnh hội được kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo, thì người giáo viên cũng phải tìm tòi, khám phá ra mọi kỹ năng nhằm giúp cho việc dạy học đạt kết quả cao. 
 Phương pháp dạy và học theo mô hình VNEN: Coi quá trình tự học của học sinh là trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, qua một năm thí điểm thực hiện mô hình này thì nhiều phụ huynh băn khoăn không biết mô hình này có phù hợp với lứa tuổi của các em học sinh Tiểu học? Các em có tiếp thu được kiến thức đầy đủ và hiệu quả hơn cách dạy và học truyền thống của Việt Nam. Vì vậy trong quá trình thực tế giảng dạy nhiều năm với sự trăn trở tôi đã đi đến chọn đề tài sáng kiến “Kỹ năng tổ chức dạy học theo nhóm mô hình trường học mới VNEN” mà tôi đã áp dụng cho năm 2015-2016.
 Là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học hợp tác nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm việc với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. Đối với cấp Tiểu học, việc rèn cho các em các kỹ năng học hợp tác nhóm là hết sức cần thiết, tạo điều kiện để các em có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, góp phần vào việc giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh. Việc dạy học theo nhóm được tổ chức dạy học như thế nào? Những giáo viên chưa đủ tự tin cũng như kĩ năng để vận dụng vào quá trình dạy học nhóm. Qua thực tế dạy học ở trường tôi nói riêng và một số trường Tiểu học dạy mô hình VNEN nói chung. Đa số giáo viên chưa hiểu nhiều về phương pháp này. Theo họ thì học hợp tác nhóm là xếp các em vào một nhóm để cùng giải quyết một vấn đề khó, một câu hỏi khó mà một em học sinh bình thường không thể giải quyết được. 
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
a) Mục tiêu:
 Nhằm đề xuất các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả học tập theo nhóm trong học sinh ở trường tiểu học qua đó phát triển các kỹ năng dạy học theo nhóm và nhân rộng ở các lớp, qua dạy học nhóm giúp chia sẻ, tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin góp phần nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, đáp ứng yêu cầu học tập hiện nay trong thời kỳ hội nhập
 Bản thân tôi cũng là một trong số nhiều giáo viên đang tham gia giảng dạy thí điểm mô hình trường học mới VNEN, với mô hình này việc dạy học theo nhóm rất thường xuyên được thao tác như một chìa khóa để đi đến thành công trong quá trình dạy học.
b) Nhiệm vụ:
 Với thực trạng trên và để đáp ứng yêu cầu về đổi mới PPDH cũng như vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Theo tôi, để thực hiện tốt phương pháp dạy học theo nhóm, giáo viên cần phải có các kĩ năng tổ chức sau:
- Kĩ năng chia nhóm.
- Kĩ năng giao nhiệm vụ.
- Kĩ năng tổ chức cho học sinh làm việc trong nhóm.
- Kĩ năng quan sát.
- Kĩ năng tổ chức cho học sinh trình bày kết quả học tập.
- Kĩ năng đánh giá kết quả học tập.
- Kĩ năng phản hồi.
I.3. Đối tượng nghiên cứu : 
 Học sinh của lớp 4C Trường Tiểu học Xuân Châu 
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về “Một số kỹ năng dạy học theo nhóm mô hình trường học mới VNEN ”. Nhằm mang lại hiệu quả cao trong dạy học nhóm ở lớp 4C và các lớp học mô hình VNEN Trường Tiểu học Xuân Châu năm học 2015 – 2016.
 I. 5. Một số phương pháp nghiên cứu.
 Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu.
 - Phương pháp quan sát: Thực hiện quan sát trong quá trình học tập trong lớp, ngoài giờ học tập, đặc biệt là theo dõi trong những giờ thảo luận nhóm của học sinh nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học theo nhóm. 
 - Phương pháp điều tra phỏng vấn: Tiến hành thiết lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm và tự luận cho 1 số nhóm học sinh và điều tra qua phiếu liên quan đến việc phân tích đánh giá việc học của học sinh, hay thông qua phỏng vấn trực tiếp qua đó nắm bắt được thực trạng.
 - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua các sản phẩm làm ra của học sinh như bài tập làm việc theo nhóm, bài kiểm tra của học sinh hoặc bài làm cá nhân nhằm để phân tích, đánh giá sản phẩm và nhận định đưa kết luận đúng khi dạy học. 
 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Qua các hoạt động, Giáo viên ghi chép qua đó đúc rút kinh nghiệm được chưa được tổng hợp đi đến kết luận
 - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu.
II. Mô tả giải pháp: 
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
 Dạy học theo nhóm đây là mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng học dạy theo mô hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện linh động với đồ dùng dạy và học sẵn có để HS tham khảo; góc đồ dùng học tập, góc cộng đồng, góc trưng bày sản phẩm... Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền thụ của GV thành việc hướng dẫn HS tự học. Lớp học do HS tự quản và được tổ chức theo các hình thức, như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. học sinh khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Ở đây được coi là một phương pháp dạy học. Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và phối hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm HS. HS trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bầu không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. HS có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa giáo viên và học sinh.
1.1. Thực trạng.
 Từ năm học 2013- 2014 trở về trước, quan điểm dạy học của giáo viên chủ yếu là lên lớp cố gắng truyền tải hết khối lượng kiến thức theo yêu cầu trong sách giáo khoa cho học sinh, các tiết học của học sinh thật sự rất đơn điệu, hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là ngồi nghe thầy cô giảng bài sau đó luyện tập theo những gì các em tiếp thu được. 
 Đồ dùng như tranh ảnh, bản đồ, hay các giáo cụ phục vụ cho việc dạy học cũng ít khi sử dụng. Tiết học chỉ có phấn trắng, bảng đen, SGK, việc học của học sinh tất nhiên là phải phụ thuộc vào khâu tổ chức của giáo viên, giáo viên tổ chức dạy thế nào thì học sinh học theo thế đó.
 Ngồi yên một chỗ nghe giảng và làm bài quả thực là điều rất khó khăn đối với trẻ nhất là học sinh tiểu học. Chính vì điều đó mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát trong các hoạt động, nhàm chán trong việc học tập, kết quả học tập không cao, khả năng tự bộc lộ bản thân yếu,
 Học sinh còn lúng túng, nhút nhát, ít nói, chưa mạnh dạn tham gia vào hoạt động nhóm nhất là học sinh yếu.
1.2. Phân tích ưu nhược điểm.
a. Thuận lợi :
 - Đa số học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu HD học và đồ dùng học tập.
 - Học sinh trong lớp và trường thích học mô hình này.
 - Bản thân giaó viên thích nghiên cứu sâu và dạy học theo nhóm học sinh có hiệu quả. 
 Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1 điều đó rất tiện cho GV và HS trong hoạt động dạy và học.
 - Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động học của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy truyền thống  sang phương pháp học tích cực của học sinh.
b. Khó khăn: 
 Đòi hỏi nhiều thời gian: Một lớp học đông với thời gian giảng dạy từ 35 đến 40 phút học một tiết là một trở ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công. Nếu như GV không kiểm soát cẩn thận tương tác giữa HS trong nhóm, thì một vài HS có thể lãng phí thời gian vào việc thảo luận những vấn đề không có liên quan hoặc có thể xảy ra trường hợp là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong nhóm không tham gia thảo luận mà lại quan tâm đến vấn đề kháctrong nhóm và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua quá mức. Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng và một vài em có thể cảm thấy không thoải mái với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm và sự bình xét của các bạn.
c. Thành công - Hạn chế.
* Thành công: 
 Dạy học theo nhóm đã được GV sử dụng khá phổ biến và thường xuyên: Từ khi có chủ trương đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường sự tham gia của HS, phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực của các em thì dạy học theo nhóm đã được coi là phương pháp dạy học hữu hiệu và bước đầu đã làm thay đổi bộ mặt phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông GV đã nhận thức được những ích lợi của dạy học nhóm: GV đã thấy rõ tác dụng của dạy học theo nhóm trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của HS như: mọi HS đều được trình bày ý kiến, HS tự tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn.v.v... và phát triển những kĩ năng XH cho HS, như biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết trình bày ý kiến của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến,v.v...; Còn đối với GV thì dạy học nhóm giúp họ không phải nói nhiều trên lớp, nhưng chuẩn bị bài cần kỹ lưỡng hơn; hiểu khả năng của HS hơn.v.v.... GV đã có kiến thức và một số kỹ năng để tiến hành dạy học theo nhóm: Qua dự giờ của một số giáo viên đều cho thấy về cơ bản GV biết sử dụng phương pháp dạy học nhóm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu và nội dung bài học. GV bước đầu đã biết lựa chọn hình thức và cơ cấu nhóm tương đối phù hợp, đã nêu được các bước dạy học theo nhóm. Khâu chuẩn bị của GV cho HS trong nhóm làm việc theo 10 bước học tập cũng rất tốt. HS đã có những kĩ năng làm việc theo nhóm: Các em đã biết nhanh chóng gia nhập vào nhóm, bầu nhóm trưởng, thư kí; bước đầu biết bày tỏ quan điểm, ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc chung của cả nhóm. 
* Hạn chế:
 Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, vẫn còn những tồn tại nhất định, cụ thể là: Gia đình các em đa số làm nông, kinh tế một số gia đình khó khăn nên chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, phải lo cuộc sống mưu sinh còn phó mặc công việc học tập của con em mình cho nhà trường. 
 Khi tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ, GV chủ yếu hướng HS nhằm vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà nhóm HS cùng nhau thực hiện chứ chưa chú trọng GD cho HS những kĩ năng xã hội quan trọng mà làm việc nhóm có ưu thế.
 Sau khi các nhóm thảo luận GV ít quan tâm chốt lại những kiến thức, kết luận chung làm cho HS không biết ý kiến nào là phù hợp. Dạy học nhóm chưa được sử dụng đồng đều ở tất cả các môn học. Còn đơn điệu trong việc sử dụng các hình thức tiến hành và nhiệm vụ giao cho nhóm. Nhiệm vụ giao cho nhóm còn đơn giản, ít phương án trả lời, không cần huy động nhiều kinh nghiệm của từng cá nhân và thiếu định hướng để HS buộc phải phân chia công việc hay phải trưng cầu ý kiến riêng của từng người trong nhóm.
d. Mặt mạnh – Mặt yếu. 
 * Mặt mạnh : 
 - Dạy học theo nhóm có thể tập trung những mặt mạnh của từng học sinh, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu. Dạy học theo nhóm nâng cao tính tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Thực hiện tốt theo 10 bước học tập.
 - Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới. Kích thích sự giao tiếp, chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và cách giải quyết vấn đề 
 - Tăng cường các kĩ năng biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức biểu đạt như lời nói, ánh mắt cử chỉ
 - Khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau, từng người và trở thành niềm vui chung của tất cả. Họ gắn kết với nhau theo phương thức Nhà trường – Gia đình – Cộng đồng 
 *Mặt yếu:
 - Một số khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm.
 - Bàn ghế chưa phù hợp để có thể sắp xếp cho dạy học nhóm, một số HS lúng túng và nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động trong nhóm. Một số học sinh còn ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm. Việc quan sát, đánh giá của giáo viên chưa được quan tâm đúng mức.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 
 Nhằm để khắc phục thực trạng trên đồng thời rèn kĩ năng tổ chức hoạt động nhóm theo quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục theo chương trình của Bộ. 
 Bản thân tôi đã áp dụng vào lớp 4C Trường Tiểu học Xuân Châu và chia sẻ kinh nghiệm của mình tới đồng nghiệp.
 Đến nay toàn Trường Tiểu học Xuân Châu có 15 lớp tổ chức dạy học theo hoạt động nhóm trong tất cả các tiết học, trong đó các lớp này đều dạy theo mô hình trường học mới VNEN, về dạy học nhóm phát huy tốt những vấn đề bất cập nêu trên. 
 Nhận thức đầy đủ một cách có hệ thống về quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm là đặt người học vào trung tâm của quá trình dạy học, tạo cơ hội tới mức tối đa để HS được tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động trên lớp. Để dạy học theo nhóm của mô hình VNEN, giáo viên cần chú ý một số điểm sau.
 2.1.Các hình thức học :
 - Trải nghiệm: Học qua thực tế, học từ những kinh nghiệm thông qua việc làm và qua khám phá tìm tòi của các em.
 - Giao tiếp: Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. “ Học thầy không tày học bạn”
 - Học qua tương tác: Chia sẻ với bạn bè những kinh nghiệm của mình và học kinh nghiệm từ bạn bè cũng như người lớn.
 - Rút kinh nghiệm: Sau những lần thất bại, các em cố gắng làm lại lần nữa, lần sau sẻ tốt hơn lần trước. Từ những kinh nghiệm học tập đó, các em có thể áp dụng vào các tình huống khác.
 Bốn hình thức trên chính là biểu hiện của quan điểm dạy học này. Để thực hiện được điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng cho từng cách học. Biết được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm, giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy. 
 Tuy nhiên trong thực tế thì có nhiều kiểu nhóm khác, nhưng tôi nêu ra một số kiểu điển hình trên và hướng dẫn cách chia và các hình thức chia các nhóm này 
2.2.Các hình thức chia nhóm:
 Cách chia như sau :
 Nhóm đếm số : Muốn chia lớp thành 7 nhóm thì điểm số từ 1 đến 4 rồi quay lại 14. Ví dụ lớp bạn có 28 học sinh , bạn muốn chia thành 7 nhóm thì yêu cầu học sinh đếm 1,2,3,4. Bạn yêu cầu những học sinh có số đếm là 1 thì về nhóm 1, những học sinh có số 2 về nhóm 2  Khi chuyển nhóm có thể cho học sinh vừa đi vừa hát hoặc vỗ tay 
 Ưu điểm : Tốn ít thời gian , tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái , phong cách nhanh nhẹn, áp dụng được cho tất cả các môn học. 
 Nhóm biểu tượng . Biểu tượng có thể là : (con vật , cây cối , hình ảnh, các 
bông hoa  ) Muốn chia lớp thành 5 nhóm thì bạn phải chuẩn bị 5 biểu tượng .
 Ưu điểm : 
 Tốn ít thời gian, tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái, lớp học sinh động, áp dụng được cho tất cả các môn học nhất là các môn học có chủ đề. Lớp học sôi nổi hứng thú cho tất cả học sinh.
 Nhược điểm : GV phải chuẩn bị nhiều, gây tốn kém.
 Nhóm mã màu: Hình thức chia như nhóm biểu tượng.
 Nhóm cặp đôi: Xếp 2 học sinh vào một cặp .
 Nhóm sở thích:Những học sinh có cùng sở thích ngồi cùng một nhóm “Những người cùng sở thích thì sự thống nhất sẽ cao hơn.”
 Nhóm tương trợ: Xếp những học sinh có trình độ và năng lực khác nhau 
( khá giỏi và trung bình- yếu) vào một nhóm , để học sinh khá giỏi có thể hỗ trợ cho học sinh yếu.
 Nhóm theo ghép hình: Cắt hình ra thành nhiều mảnh , cho học sinh nhận mỗi em mỗi mảnh sau đó ghép lại thành hình lúc đầu .Cách này ít khi sử dụng vì tốn nhiều thời gian cho một tiết học, chỉ thích hợp với các hoạt động ngoại khoá.
 Nhóm theo trình độ: Những học sinh cùng năng lực và trình độ sẽ ngồi một nhóm 
 * Ưu điểm : Giáo viên có thời gian giúp đỡ , hỗ trợ những nhóm có trình độ yếu và phát huy tính tự lập cho nhóm khá giỏi.
 Nhóm cùng tháng sinh: Nhóm này cũng ít khi sử dụng vì trong lớp đôi khi cùng tháng nhiều hơn khác tháng, gây mất cân bằng. Chỉ thích hợp khi mình có tổ chức sinh nhật cho học sinh 
 Cách chia nhóm ngẫu nhiên từ một hoạt động cụ thể: Trong quá trình dạy học, nếu tiết học nào đó mà học sinh nhàm chán, chúng ta muốn tổ chức cho học sinh một trò chơi “ phá băng ” từ trò chơi đó ta cũng có thể chia thành nhóm học tập mới.
 Cách làm như sau: Người quản trò hô“ đoàn kết –đoàn kết “ HS đáp “ kết mấy – kết mấy”, quản trò hô “ kết 4- kết 4” 
 Giả sử lớp có 27 học sinh nhưng ta muốn chia lớp thành 7 nhóm thì ta hô “ đoàn kết đoàn kết” “ kết mấy kết mấy” - “ kết 4- kết 4” sẽ dư 3 HS, ta có thể bố trí ba học sinh này vào một nhóm .
 * Chia được nhóm rồi thì tổ chức làm việc như thế nào cho có hiệu quả ? Để trả lời câu hỏi này ta qua phần vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong nhóm. 
 Nhóm trưởng: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ tổ chức, điều hành nhóm làm việc đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. Nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu lên hoặc do giáo viên chỉ định, nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm cần thay đổi thường xuyên tạo nên sự tự tin trong khi làm việc nhóm.
 Các thành viên trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao.
 Nguyên tắc làm việc trong nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng, ghi chép trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép, người nói phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo đa số. Có nhận xét rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động
2.3. Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm.
 Nghiên cứu kĩ bài dạy (mục đích cần đạt, câu lệnh, lôgô...) để trao đổi với các 
giáo viên trong khối điều chỉnh cho phù hợp; Nắm chắc 5 bước giảng dạy và 10 bước học tập để tổ chức dạy học trên lớp đạt hiệu quả.
 Sắp xếp lại chỗ ngồi để thuận tiện cho việc dạy học theo nhóm 4 hoặc 6,tận dụng được không gian phòng học để tổ chức trò chơi trong tiết học. Trong mỗi nhóm cần bố trí HS ở 3 mức độ để tạo sự tương tác giúp đỡ nhau và điều hành nhóm có hiệu quả.
 Chuẩn bị câu hỏi gợi mở để làm rõ vấn đề hơn hoặc liên hệ thực tế để giúp học sinh có khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Nếu kết quả làm việc nhóm của học sinh đáp ứng đầy đủ yêu cầu thì có thể sử dụng để hệ thống thành bài học. Điều này sẽ làm tăng sự thích thú làm việc của học sinh bởi vì các em rất tự hào khi tự mình có thể hình thành được bài học cho cả lớp, đồng thời giảm bớt sự can thiệp của giáo viên trong quá trình học.
 Việc nhận xét quá trình làm việc của nhóm cũng không nên qua loa, đại khái. Càng đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho những lần làm việc sau. Những tiêu chí nhận xét cần thiết phải có:
 + Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thảo luận.
 + Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
 + Kĩ năng trình bày kết quả hoặc giải thích chất vấn trước lớp.
 + Cần khen ngợi những học sinh biết lắng nghe và đưa ra những câu hỏi thắc mắc phù hợp.
 Các chức danh nhóm trưởng và thư kí nên luân phiên. Khi bắt đầu làm việc, nhóm trưởng phải phân công các thành viên trong nhóm, mỗi người một việc, sau đó cá nhân làm việc độc lập rồi từng em đưa ra ý kiến để thảo luận trong nhóm. Ý kiến thống nhất được ghi nhận để chuẩn bị trình bày trước lớp. Người trình bày cũng nên luân phiên để tạo điều kiện cho tất cả học sinh được rèn kĩ năng nói. 
 Trong thời gian học sinh làm việc, giáo viên cần phải đến hoặc đi xung quanh các nhóm để quan sát các hoạt động của nhóm, nếu có vấn đề gì thì kịp thời định hướng, nên thực hành với một số nhóm học sinh cụ thể.
 Khen ngợi và động viên HS nói về kết quả làm việc.Vì trong quá trình giao việc cho các nhóm, nếu thấy các nhóm làm việc chăm chú và trao đổi sôi nổi thì GV mới có thể yên tâm. Một khi thấy các nhóm làm việc trầm lắng, hay nhốn nháo  Gv cần nghĩ ngay tới các lí do, như phiếu học tập chưa phù hợp với trình độ hay chưa thực hiện đúng vai trò, HS chưa hiểu cần phát lệnh cứu trợ ngay lúc đó GV phải có mặt kịp thời và giải quyết vấn đề mà nhóm hoặc một vài cá nhân trong nhóm gặp phải.
 Trong thời gian học sinh làm việc, giáo viên thường xuyên theo dõi để hướng dẫn, giúp đỡ các nhóm trao đổi thảo luận đúng yêu cầu bài học, tránh thảo luận tùy hứng dẫn đến nguy cơ đi chệch yêu cầu.
 Đối với môn LS$ĐL, Khoa học thì GV linh hoạt trong điều chỉnh Lô gô, mỗi HĐ tự học, tối thiểu có từ 2 HĐ trở lên,trong đó HĐ cá nhân là bắt buộc, HĐ nhóm có thể có thể là cặp đôi hoặc nhóm lớn. Giáo viên cần dự kiến trước các tình huống trả lời của học sinh để có thể xử lí tốt các kết luận. Trong quá trình quan sát các nhóm HĐ, gv thấy nhóm nào tự học có tiến độ nhanh thì giáo viên đến yêu cầu HS báo cáo và đưa ra một vài câu hỏi gợi mở thêm nhằm mở rộng kiến thức cho các em, điều này sẽ làm tăng sự thích thú làm việc của học sinh bởi vì các em rất tự hào khi tự mình có thể hình thành được bài học, đồng thời giảm bớt sự can thiệp của giáo viên trong quá trình học. Đối với nhóm có tiến độ chậm hơn thì GV lắng nghe, quan sát các em hoạt động nhóm lớn để uốn nắn, công nhận kết quả và động viên các em trong HĐ tiếp theo để kết thúc HĐCB hoặc HĐTH thì tiến độ các nhóm kết thúc đồng đều, đảm bảo thời gian cho giờ học.
 * Lưu ý khi giao việc cho nhóm. 
 Thông thường trong quá trình dạy học chúng ta chia nhóm xong rồi mới giao việc. Giao việc lúc này không có hiệu quả hoặc có thì cũng thấp, vì sau khi thành lập nhóm, ít HS tập trung nghe phổ biến yêu cầu. 
 Theo kinh nghiệm của tôi, nên giao việc trước khi tiến hành chia nhóm vì trước khi chia nhóm học sinh rất tập trung, giao việc hay triển khai nhiệm vụ vào thời điểm này thì hiệu quả cao hơn vì nó rất thuận tiện cho việc hoạt động nhóm cho học sinh và tận dụng được không gian phòng học để có chỗ tổ chức các trò chơi đồng thời làm cho lớp học thoáng hơn, thích hợp với lớp được trang bị bàn 2 chỗ. Thực ra thì vấn đề này nếu chúng ta xem xét một cách đúng đắn thì cách sắp sếp ngồi học như thế này không ảnh hưởng gì tới thể chất của học sinh cả: Việc tổ chức hoạt động nhóm thường xuyên thay đổi vị trí ngồi học , lúc thì ngồi học chỗ này, tiết học sau lại ngồi chỗ khác. Hay nói cách khác áp dụng hình thức dạy học theo nhóm thì chỗ ngồi của học sinh là chỗ ngồi không ổn định.
 Mô hình lớp học mới ở học sinh và giáo viên có đặc điểm chủ yếu:
 - Học sinh: Tự giác, tự quản; tự học; tự đánh giá; tự trọng; tự tin.
 - Giáo viên: Với vai trò tổ chức, hướng dẫn các hoạt động; quan sát hoạt động học tập nhóm, giúp đỡ, hỗ trợ, chốt lại các vấn đề từ học sinh, đánh giá quá trình
 Với các đặc điểm đó, ta thấy lớp học theo mô hình VNEN đã có sự thay đổi căn bản về phương pháp và hình thức tổ chức lớp học so với kiểu truyền thống. Từ chỗ giáo viên phần lớn mang tính giảng giải, truyền thụ sang vai trò tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để học sinh tìm đến kiến thức bài học. Học sinh từ nghe, làm thụ động thật sự chuyển sang tự học, nghiên cứu tìm ra kiến thức bài học theo nhóm; nhóm luôn hỗ trợ lẫn nhau, với phương pháp chủ đạo là phương pháp dạy học hợp tác nhóm.
2.4. Vai trò của học sinh trong hoạt động nhóm.
 +HĐ cá nhân:
Việc 1: Đọc thầm tài liệu.
Việc 2: Tự làm bài.
+HĐ cặp đôi:
Việc 1: Trao đổi kết quả tự làm với bạn.
Việc 2: Đánh giá, nhận xét, bổ sung bài cho nhau.
+HĐ nhóm lớn:
Việc 1: NT điều hành báo cáo trong nhóm.
Việc 2: Các thành viên đánh giá, nhận xét, bổ sung.
Việc 3: Thống nhất kết quả để báo cáo với thầy cô. 
Học sinh cần có kỹ năng giao tiếp, tương tác trong nhóm với nhau, như:
+ Biết lắng nghe và trình bày ý kiến một cách rõ ràng.
+ Biết lắng nghe và biết thừa nhận ý kiến của người khác.
+ Biết ngắt lời một cách hợp lí.
+ Biết phản đối một cách lịch sự và đáp lại lời phản đối.
+ Biết thuyết phục người khác và đáp lại sự thuyết phục.
+Xây dựng niềm tin là kỹ năng tránh đi sự mặc cảm nhất là đối tượng học sinh  có khó khăn về học tập.
+Trong thảo luận cần tránh những từ ngữ như đúng, sai mà cần thay vào đó những cụm từ như: thế này sẽ tốt hơn, tìm một giải pháp hợp lý hơn
 Học sinh phải có thói quen lắng nghe và khuyến khích các em đưa ra nhận xét cụ thể hoặc ý kiến bổ sung cho nội dung nhóm bạn vừa trình bày. Cao hơn nữa là tập cho học sinh đặt vấn đề, nêu câu hỏi tạo tình huống. Quá trình báo cáo kết quả thảo luận nếu điều hành tốt thì sẽ giúp học sinh rút thêm kinh nghiệm khi điều hành thảo luận trong nhóm sau này và kĩ năng hợp tác nhóm của học sinh sẽ ngày một cao hơn.
 Mặt khác, cần phải chọn lọc những nội dung có “tính vấn đề” hoặc tương đối khó, cần có sự hợp tác của một nhóm học sinh, bởi vì nếu làm việc độc lập, học sinh không đủ khả năng giải quyết. Cũng cần lưu ý đến “độ khó” của vấn đề, nên chọn vấn đề vừa sức học sinh và giáo viên phải theo sát để hướng dẫn, gợi ý cho các em. Nếu chọn vấn đề quá đơn giản sẽ không thực hiện được mục tiêu của phương pháp dạy học theo nhóm lại làm cho việc tổ chức hoạt động nhóm trở nên hình thức
2.5. Quan hệ giữa các phương tiện học tập, giảng dạy và CSVC lớp học:
 Rõ ràng, nếu tài liệu, phương tiện học tập đủ, thiếu, đồng bộ hay không đồng bộ và điều kiện về CSVC phù hợp hay không phù hợp đều rất quan hệ trực tiếp ảnh hưởng đến cách tổ chức học nhóm. Tổ chức luyện tập theo nhóm, nếu không quan tâm tới điều này thì có thể, hoặc không khai thác có hiệu quả phương tiện dạy học hiện có, hoặc vô hiệu hóa các phương tiện đó. Cần qua tâm xây dựng “Góc học tập”, đó là nơi để các đồ dùng của giáo viên và học sinh tự làm để chuẩn bị cho các tiết học và đồng thời cũng là nơi để trưng bày các sản phẩm đẹp mà sau tiết học, các em hoàn thiện như sản phẩm môn thủ công, mĩ thuật, những bài văn hay,Việc làm này cũng nhằm khuyến khích động viên các em sẽ cố gắng nhiều hơn để có sản phẩm được trưng bày. Tôi đưa những đồ dùng học tập do Bộ giáo dục cấp, những đồ dùng tự làm vào cá góc môn Toán, góc môn Tiếng Việt.... Tôi còn sưu tầm thêm những nội dung, kiến thức mới như nhũng câu ca dao, tục ngữ, những bài toán hay,nhằm khuyến khích sự tò mò, khám phá của các em. Qua đó, giáo viên dễ dàng cung cấp thêm hiểu biết cho học sinh mà không cần phải nhồi nhét, gò ép, gây áp lực cho các em.
 Quan hệ giữa các cách tổ chức học tập cá nhân hay toàn lớp được tiến hành trước khi tổ chức học nhóm: Một tiết dạy là một cơ cấu hoàn chỉnh từ phút đầu đến phút chót, có tính đặc thù về trình tự, về nhịp điệu, về tiến trình theo từng môn học. Vì vậy, việc làm trước, việc làm sau đương nhiên liên quan với nhau. Hoạt động trước làm nảy sinh hoạt động sau, hoạt động sau củng cố hoặc nối tiếp hoạt động trước. Dùng cách tổ chức học tập nào trước, sau đều cần có lí do trong mối quan hệ này, tránh hiện tượng xen kiểu học nhóm vào để được tiếng là có đổi mới phương pháp.
 Cần đảm bảo trình tự tiến hành phương pháp dạy học theo nhóm: Bất cứ phương pháp dạy học nào cũng đếu có quy trình thực hiện của nó. Việc đảm bảo quy trình giúp giáo viên tránh được những lúng túng trong khi hướng dẫn học sinh.
 Nó còn thể hiện được tính khoa học trong tổ chức dạy học, đồng thời giúp học sinh tham gia thảo luận, chọn vấn đề tốt hơn. Tuy nhiên việc thực hiện quy trình có thể bỏ qua khi thường xuyên dùng. Nên tránh máy móc mất thời gian nhưng cũng không được lạm dụng việc làm vắn tắt quá mức làm mất hứng thú học tập. 
 III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại: 
 GV đã nhận thức được những ích lợi của dạy học nhóm: GV đã thấy rõ tác dụng của dạy học theo nhóm trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của HS, như: mọi HS đều được trình bày ý kiến, HS tự tìm ra tri thức, 

Tài liệu đính kèm:

  • docSANG_KIEN_KINH_NGHIEM_LOP_4_KN_DAY_HOC_THEO_MO_HINH_VNEN.doc