Đề thi thử THPT Quốc gia lần II năm 2016 môn: Lịch sử - Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ (kèm đáp án)

pdf 4 trang Người đăng tuanhung Lượt xem 1004Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi thử THPT Quốc gia lần II năm 2016 môn: Lịch sử - Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ (kèm đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi thử THPT Quốc gia lần II năm 2016 môn: Lịch sử - Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ (kèm đáp án)
 TRƯỜNG THPT CHUYÊN KÌ THI THỬ THPT QUỐC GIA LẦN THỨ II 
 NGUYỄN HUỆ NĂM HỌC 2015 – 2016 
ĐỀ THI MÔN: LỊCH SỬ 
Đề thi có 01 trang , gồm 04 câu. 
Thời gian làm bài: 180 phút 
Câu 1 (3,0 điểm) Khái quát con đường cách mạng dân chủ vô sản ở Việt Nam từ sau 
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến tháng 2 năm 1930. 
Câu 2 (2,0 điểm) So sánh kì bầu cử Quốc hội năm 1946 và kì bầu cử Quốc hội năm 
1976 ở Việt Nam. 
Câu 3 (2,0 điểm) Vì sao Đảng chủ trương Cuộc tiến công Đông – Xuân 1953 – 1954 
phải theo phương châm đánh chắc, nhưng Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 
phải theo phương châm đánh nhanh ? 
Câu 4 (3,0 điểm) Trình bày khái quát những sự kiện phản ánh quan hệ giữa Mĩ và 
Trung Quốc từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. 
.Hết. 
Ghi chú: 
Thí sinh không được sử dụng tài liệu ; 
Giám thị không được giải thích gì thêm. 
 HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM MÔN LỊCH SỬ KÌ THI THỬ THPT LẦN 3 (2016) 
Câu Nội dung ĐiêĐiểmĐiê Điểm 
Câu 1 
(3,0 điểm) 
Khái quát con đường cách mạng dân chủ vô sản ở Việt Nam từ sau Chiến tranh 
thế giới lần thứ nhất đến tháng 2 năm 1930. 
Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân 
tộc và thuộc địa, tìm ra con đường cứu nước vô sản. Tháng 12 - 1920, Người dự Đại hội 
Tua của Đảng Xã hội Pháp và thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. 
Từ năm 1920 đến 1924, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt 
Nam. Ngày 11 - 11- 1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu – Trung Quốc trực tiếp 
tuyên truyền, giáo dục lí luận, xây dựng tổ chức cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. 
Tháng 6 - 1925, tại Quảng Châu – Trung Quốc, Người cải tổ Tâm tâm xã thành Hội 
Việt Nam Cách mạng Thanh niên (HVNCMTN), chuẩn bị trực tiếp để lập đảng cộng sản 
Nhờ tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân từ năm 1919 – 1925 
ngày càng phát triển. Tháng 8 – 1925, cuộc bãi công Ba Sơn – Sài Gòn thể hiện bước 
phát triển mới của phong trào công nhân Việt Nam. 
Từ cuối năm 1924 đến năm 1927, Người mở các lớp huấn luyện hội viên cho 
HVNCMTN. Những người tốt nghiệp về nước hoạt động, một số ưu tú được Người giới 
thiệu đi học tiếp ở Liên Xô, Trung Quốc. 
Sách Đường kách mệnh (1927) cùng báo Thanh niên đã trang bị cho cán bộ và nhân 
dân ta những hiểu biết quan trọng về cách mạng vô sản. Phong trào “vô sản hóa” (1928) 
rèn luyện hội viên của HVNCMTN. 
Hoạt động của HVNCMTN năm 1928 – 1929 làm phong trào công nhân ngày càng 
tự giác, phong trào yêu nước ngày càng đi theo con đường vô sản, Tân Việt cách mạng 
đảng ngày càng phân hóa... Tình hình đó đòi hỏi phải lập đảng cộng sản. 
Tháng 3 - 1929, ra đời Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại số nhà 5 D phố Hàm Long – Hà 
Nội. Tháng 5 - 1925, HVNCMTN có cuộc đấu tranh nội bộ về lập hay chưa lập đảng 
cộng sản. 
Sau đó, xuất hiện Đông Dương Cộng sản đảng (6 - 1929), An Nam Cộng sản đảng 
(8 - 1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9 - 1929), đánh dấu thắng lợi của 
khuynh hướng vô sản trong phong trào yêu nước. 
NAQ đã hợp nhất Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng thành 
Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng – Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 
tháng 2 năm 1930. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập ĐCSVN (24 -2- 1930). 
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2 - 1930) đúng đắn, sáng tạo 
Đảng ra đời với đường lối cách mạng đúng đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng về 
đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là bước ngoặt phát triển của cách 
mạng Việt Nam và là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi về sau của CMVN. 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
Câu 2 
(2,0 điểm) 
So sánh kì bầu cử Quốc hội năm 1946 và kì bầu cử Quốc hội năm 1976 ở Việt 
Nam. 
Giống nhau: 
Đều được tiến hành ngay sau những thắng lợi to lớn của cách mạng (Cách mạng 
 tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa Xuân 1975) nhằm củng cố và phát triển thành quả 
cách mạng đã đạt được. 
Đều được tiến hành trên phạm vi cả nước, bằng phương pháp phổ thông đầu phiếu, 
nhằm thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. 
Nhân dân phấn khởi, tin tưởng và ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách 
mạng nên nô nức, hăng hái tham gia bầu cử. Có hơn 90% tổng số cử tri đi bầu cử. Vì thế, 
cả hai cuộc bầu cử đều thành công. 
Là những cuộc vận động chính trị sâu rộng, khởi dậy và phát huy tinh thần yêu 
nước, ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc của mỗi công dân, đập tan những âm mưu 
chống phá của kẻ thù, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho nhà nước cách mạng tòn tại. 
Khác khau: 
Về mục tiêu, bầu cử Quốc hội năm 1946 nhằm xây dựng nền móng chế độ mới dân 
chủ nhân dân, lập ra chính phủ chính thức thay cho Chính phủ Cách mạng lâm thời; bầu 
cử Quốc hội năm 1976 nhằm củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập ra chính phủ thống 
nhất thay cho chính phủ riêng ở hai miền Nam - Bắc. 
Về hoàn cảnh: Kì bầu cử Quốc hội năm 1946 diễn ra khi Nam Bộ phải kháng chiến 
chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Kì bầu cử Quốc hội năm 1976 về cơ bản nước ta 
hòa bình nhưng có xung đột biên giới Tây Nam với Cămpuchia. 
Về tỉ lệ cử tri đi bầu cử: Năm 1946 là hơn 90%, năm 1976 là 98,8%. Số đại biểu 
Quốc hội được bầu năm 1946 là 333, năm 1976 là 492 do tỉ lệ thuận với tăng dân số. 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,5 
0,25 
0,25 
Câu 3 
(2,0 điểm) 
 Vì sao Đảng chủ trương Cuộc tiến công Đông – Xuân 1953 – 1954 phải theo 
phương châm đánh chắc, nhưng Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 phải 
theo phương châm đánh nhanh ? 
a) Cuộc tiến công Đông – Xuân 1953 – 1954 phải theo phương châm đánh chắc. 
Cuộc tiến công Đông – Xuân 1953 – 1954 phải theo phương châm đánh chắc vì khi 
đó không có thời cơ. Cả ta và địch lúc đó đều có lực lượng quân sự mạnh nhất. 
Được Mĩ giúp, Pháp thực hiện Kế hoạch Nava (1953 - 1954) xây dựng được 84 tiểu 
đoàn quân cơ động chiến lược và 34 vạn quân ngụy. Pháp tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 
44 tiểu đoàn cơ động, sau đó xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm quân sự 
mạnh nhất Đông Dương và chọn nơi đây để quyết chiến chiến lược với ta. Pháp muốn 
tìm kiếm thắng lợi quân sự quyết định để đàm phán kí hiệp định kết thúc chiến tranh. 
Đến năm 1953 đã có thế và lực đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên, để đảm bảo chắc thắng, 
phá vỡ kế hoạch Nava, tạo thuận lợi kí hiệp định kết thúc chiến tranh, ta phải đánh chắc, 
tiến chắc bằng những cuộc tiến công chiến lược tiêu hao, phân tán, giam chân địch. 
b) Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 phải theo phương châm đánh nhanh. 
Bước vào Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, ta có thời cơ thuận lợi, khi đó 
kẻ thù đang suy yếu nhất, lực lượng cách mạng đang phát triển mạnh mẽ nhất. 
Sau Hiệp định Pari về Việt Nam (1 - 1973), Mĩ rút quân viễn chinh và đồng minh 
khỏi Việt Nam, lực lượng Sài Gòn mất chỗ dựa trực tiếp. Lực lượng miền Bắc vẫn được 
ở lại miền Nam,... So sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta. 
Từ sau Hiệp định Pari, ta có thế và lực tiến công giành thắng lợi ở đường 14 và tỉnh 
Phước Long (6 - 1- 1975). Chiến thắng này và tình hình chiến sự sau đó cho thấy sự suy 
yếu của lực lượng Sài Gòn, sự lớn mạnh của quân ta và khả năng Mĩ can thiệp trở lại 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
 nước ta bằng quân sự rất hạn chế vì năm 1976 nước Mĩ sẽ bầu cử tổng thống. 
Vì vậy, Bộ Chính trị hợp cuối năm 1974 – đầu năm 1975 đề ra chủ trương, kế hoạch 
giải phóng miền Nam trong 2 năm (1975 - 1976) nhưng cũng khẳng định, nếu thời cơ 
chiến lược đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì phải hoàn thành giải phóng miền Nam 
trong năm 1975. Phương châm đánh nhanh để tranh thủ thời cơ và giảm thiệt hại. 
Khi Chiến dịch Tây Nguyên (4 – 24 tháng 3 năm 1975) đang diễn ra, Bộ Chính trị 
thấy thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi nên quyết định hoàn thành giải 
phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975 (trước tháng 5 - 1975). Kế hoạch giải phóng 
được rút từ 2 năm xuống 1 năm rồi xuống 2 tháng (từ 4 – 3 đến 2 – 5 – 1975). 
0,25 
0,25 
0,25 
Câu 4 
(3,0 điểm) 
Trình bày khái quát những sự kiện phản ánh quan hệ giữa Mĩ và Trung Quốc 
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. 
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ giúp Tưởng Giới Thạch gây nội chiến Quốc – 
Cộng lần 2 ở Trung Quốc (1946 - 1949). 
Kết quả, Quốc dân đảng bại trận phải chạy ra đảo Đài Loan, Đảng Cộng sản lập 
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Từ đó, Mĩ và CHND Trung Hoa (Trung Quốc) 
mâu thuẫn đối đầu. 
Trong Chiến tranh Đông Dương (1945 - 1954), Mĩ giúp Pháp xâm lược, Trung Quốc 
giúp Việt Nam kháng chiến... 
Mĩ và Trung Quốc tham gia Hội nghị Giơnevơ (1954), đưa tới chia cắt lãnh thổ Việt 
Nam thành hai miền Nam – Bắc... 
Mĩ và Trung Quốc trực tiếp đối đầu trong Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953)... 
Hai nước tham gia kí Hiệp định Bàn Môn Điếm chia cắt hai miền Nam – Bắc Triều 
Tiên đến ngày nay... 
Đế uy hiếp cộng sản ở Đông Bắc Á, nhất là Trung Quốc, Mĩ kí với Nhật Hiệp ước 
an ninh Mĩ – Nhật (1951)... 
Mĩ đóng quân trên đất Nhật và hậu thuẫn cho Đài Loan...đe dọa Trung Quốc 
Trong Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975), Mĩ xâm lược Việt Nam, Trung Quốc 
giúp Việt Nam chống Mĩ... 
Tháng 2 – 1972, tổng thống Mĩ Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở đường cho 
quan hệ giữa hai nước chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại.... 
Trung Quốc và Mĩ thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1979. Kể từ đó đến nay, hai 
nước vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau. 
Khi Trật tự hai cực Ianta đổ (1991), Trung Quốc vươn lên thành một cực cạnh tranh 
với Mĩ trong trật tự thế giới đa cực đang hình thành. 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
0,25 
...................Hết................. 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfMON SU.pdf